Vãn cảnh hôm nay, nhớ chuyện xưa
(Xin click vào ảnh để xem với kích thước lớn hơn)
![]() |
Tranh dân gian Đông Hồ |
Thân mẫu của Hai Bà Trưng là bà Man Thiện, người ở Ba Vì (Sơn Tây) được xem là hậu duệ bên ngoại của Hùng Vương và có vai trò quan trọng trong giai đoạn trước khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Tháng 9 năm 39, Trưng Trắc và Trưng Nhị cùng các tướng lĩnh tập trung quân về khu vực gần cửa sông Hát Giang, một chi lưu phía hữu ngạn sông Hồng, chảy qua làng Hát Môn và nối với sông Đáy. Tháng 2 năm 40, Hai Bà Trưng tổ chức Hội Thề ở Hát Môn, chính thức phát động cuộc khởi nghĩa được sự ủng hộ, góp sức của các Lạc tướng khắp nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ nên nhanh chóng thu phục 65 thành trì và lên ngôi vua, xưng hiệu Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh.
Ba năm sau, nhà Đông Hán sai Mã Viện đem đại binh sang đánh. Dân tộc Việt lại rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai.
Dòng Hát Giang chảy qua giữa làng Hát Môn |
Đất bồi đắp bãi sông nay đã thành đồng |
Các tài liệu cổ của Trung Hoa đề cập đến hai chị em Bà Trưng khá ngắn gọn, được tìm thấy trong hai chương của Hậu Hán Thư – chính sử Trung Hoa về thời nhà Hán từ năm 6 đến 189 - chép về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Ở quyển 86 của Hậu Hán Thư, phần “Tây Nam di liệt truyện” có viết:
Vào năm Kiến Vũ thứ 16 thời Hán Quang Vũ Đế, ở quận Giao Chỉ có hai người đàn bà là Trưng Trắc và Trưng Nhị đã nổi loạn và tấn công thủ phủ của quận. Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, bà là vợ của Thi Sách. Bà ta là một chiến binh dũng mãnh. Tô Định Thái thú của quận Giao Chỉ đã dùng luật pháp để kiềm chế bà ta, nhưng bà ta lại càng chống đối hơn. Những tộc trưởng Man Di ở quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố theo phò bà ta, đã đoạt được 65 thành trì và trở thành Nữ vương. Chính quyền của quận Giao Chỉ và các quận khác chỉ có thể phòng thủ để tự bảo vệ mình.
Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Hai Bà Trưng là Đại Việt sử lược. Theo sách này, thời Việt Nam còn là Giao Chỉ, Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh, lấy chồng là Thi Sách ở huyện Chu Diên.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hai Bà Trưng vốn họ Lạc, là dòng dõi Lạc tướng ở Mê Linh. Chồng bà Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Khi lên ngôi, Hai Bà mới đổi sang họ Trưng.
Ngoài các sách sử nói trên, các sử gia ngày nay phải dựa vào các nguồn khác từ truyền thuyết, thần phả, thần tích lưu truyền trong dân gian.
Truyền thuyết xác nhận quê nội Hai Bà ở làng Hạ Lôi và quê ngoại Hai Bà ở làng Nam Nguyễn thuộc huyện Ba Vì (Sơn Tây). Mẹ Hai Bà là Man Thiện, người được biết đến qua thần phả, còn được ghi với tên gọi Trần Thị Đoan.
Hát Giang ngày nay chỉ còn là di tích |
Xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, vốn thuộc tỉnh Sơn Tây, nhiều lần bị nhập rồi tách, nhập… vào Hà Sơn Bình, Hà Nội, Hà Tây và bây giờ lại thuộc về Hà Nội. Vào thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa, vùng Ba Vì và Phúc Thọ cũng thuộc đất Phong Châu. Hát Môn, Phúc Thọ là xã và huyện thuộc Sơn Tây giáp ranh với huyện Đan Phượng của tỉnh Hà Đông, có thời gian vùng này đều thuộc về tỉnh Hà Tây (Hà Đông+Sơn Tây).
Nguồn tham khảo:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%9Fi_ngh%C4%A9a_Hai_B%C3%A0_Tr%C6%B0ng
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_B%C3%A0_Tr%C6%B0ng
Mời xem tiếp Bài 2: Thần tích Trưng Vương và ngôi cổ miếu bên bãi sông xưa