HOA VÀ THI NHÂN
Nhớ vườn hoa nở ngọt ngào
Dưới trăng chung bóng ra vào cùng thơ.
(Tuyết Nga)
Nói
đến Hoa là nói đến Đẹp. Thi nhân là khách đi tìm Cái Đẹp (Le Beau), cho nên
không mấy người không yêu hoa.
Yêu
hoa, người yêu vì sắc, người yêu vì hương, người yêu thứ hoa nầy, người yêu thứ
hoa nọ.
Có
người yêu tất cả các giống hoa, vì bảo rằng:
Hoa nào hoa
lại không hương sắc,
Một cánh hoa
tươi một điểm tình.
Có
người lại lựa một số hoa để yêu. Như:
TĂNG
DOÃN BÁ kết bạn thân cùng10 giống hoa và gọi:
-
Hoa Lan là Phương
hữu
-
Hoa Mai là Thanh
hữu
-
Hoa Thuỵ hương là
Thú hữu
-
Hoa Sen là Tịnh
hữu
-
Hoa Bồ đào là
Thiền hữu
-
Hoa Lạp mai là Kỳ
hữu
-
Hoa Cúc là Giai
hữu
-
Hoa Quế là Tiên
hữu
-
Hoa hải đường là
Danh hữu
-
Hoa Trà My là Vãn
hữu
Và
TRƯƠNG MẪN THÚC, một thi sỹ kiêm hoạ sỹ đời Tống, lựa 12 giống hoa vẽ thành 12
bức tranh tuyệt mỹ treo nơi thơ phòng và gọi là 12 người khách:
-
Quí khách là hoa
Mẫu đơn
-
Cận khách là hoa
Thược dược
-
U khách là hoa
Lan
-
Giã khách là hoa
Tường Vy
-
Thọ khách là hoa
Cúc
-
Tiễn khách là hoa
Quế
-
Viễn khách là hoa
Lài
-
Giai khách là hoa
Thuỵ hương
-
Thanh khách là
hoa Mai
-
Nhã khách là hoa
Trà My
-
Tịnh khách là hoa
Sen
-
Tố khách là hoa
Đinh Hương.
Một
số lớn hoa Tăng Doãn Bá yêu thì Trương Mẫn Thúc cũng yêu, song tuỳ sự nhận thức
của mỗi người mà đặt tên tự cho mỗi thứ. Duy có hoa Mai, hoa Sen, hoa Quế là
được hai nhà nhận thức in nhau. Cả hai đều nhận hoa Mai là thanh, hoa Sen là
tịnh, và đều gọi hoa Quế là Tiên.
TẦN
THIẾU DU, chồng nữ sỹ đại danh đời Tống
là Tô Tiểu Muội, vừa yêu thược dược vừa yêu tường vi. Tần có câu:
Đa tình thược
dược hàn xuân lệ
Vô lực tường
vi ngoạ vãn chi
Nghĩa
là:
Ngầm ngấm
lệ xuân tình thược dược
Mỏi mềm nhánh
muộn sức tường vi.
Có
người lại chỉ yêu độc nhất một thứ hoa. Như Đào Tiềm là một.
Đào
Tiềm hiệu Uyên Minh, là một cao sỹ đời Tấn, riêng yêu hoa cúc. Cúc trồng đầy
vườn và thường ngồi trước dậu tâm tình với cúc. Trong bài Am Tửu, Đào có câu:
Thái cúc đông
ly hạ
Du nhiên kiến
Nam San.
Nghĩa
là:
Hái cúc dưới
rào đông
Nam sơn nhìn
thoải mái.
Còn
LÂM BÔ tự Hoà Tịnh, 1 cao sỹ đời Tống, lại yêu Mai. Suốt đời lấy mai làm vợ
hoặc làm con. Một hôm đi chơi trong rừng mai ở Tây Hồ, cao hứng bị lạc đường
giữa mùi hương kỳ ảo. Lâm có nhiều thơ vịnh mai, mà câu:
Sơ ảnh hoàng
tà thuỷ thanh thiển
Am hương phù
động nguyệt hoàng hôn
Nghĩa
là: “Bóng sưa nghiêng ngửa trên dòng
nứơc trong và cạn; Mùi hương kín đáo bay chập chờn dưới bóng trăng hoàng hôn”,
là 1 câu thơ quán tuyệt thiên cổ.
Lâm
Hoà Tịnh yêu mai cũng như Đào Uyên Minh yêu cúc, không phải yêu vì sắc, mà
chính yêu vì vẻ điềm đạm của cúc, nét thanh nhã của mai. Và đối với cúc cùng
mai, khách phong tao cũng còn nhiều ngâm vịnh.
Về
cúc, Tống nhân có câu:
Mạc hiềm lão
phố thu dung đạm
Do hữu hoàng
hoa vãn tiết hương.
Nghĩa
là:
Mặt lão vườn nét thu dù nhạt,
Có hoa vàng
còn ngát lòng hương.
Và
Thanh nhân mượn sắc vàng của Cúc điểm vào câu “ Sàng đầu kim tận tráng sỹ vô
nhan”, tạo thành câu:
Giã nhân chẩm
thử tăng nhan sắc,
Tợ hữu sàng
đầu vị tận kim.
Nghĩa
là:
Người quê gối
đó thêm nhan sắc,
Như thể hoàng
kim chửa sạch giường.
Tứ
thật mới, và tuy có ý vui đùa song tình vẫn đôn hậu.
Còn
vịnh Mai mà tự xuất tân ý và không nhượng cổ nhân, thì có KỲ LỆ XUYÊN Phương Bá
đời Thanh.
Ngâm tình dục
lũ băng vi cú,
Ly hận nan
chiêu ngọc tác hồn
Nghĩa
là:
Vần băng muốn
chạm tình ngâm vịnh,
Hồn ngọc
không chiêu hận biệt ly.
Vô mộng bất
tuỳ lưu thuỷ khứ
Hữu hương chỉ
tại thử môn trung.
Nghĩa
là:
Không mộng
nào không theo nước chảy,
Có hương chỉ
có tại non nầy.
Và
câu:
Lũng thủ chí
kim xuân ý bạc,
Sơn trung
tự tích cố nhân hy.
Nghĩa
là:
Ý xuân bạc
bẽo lòng khe vắng,
Người cũ lơ
làng bóng núi sâu.
Tình
hoài cao đạm, thật là tri kỷ của mai.
Nhưng
đối với Mai, vì vẻ thanh sấu, nên Đường Minh Hoàng phụ rẫy để say sưa vẻ phì
nộn của hải đường. Minh Hoàng sánh hải đường với người yêu là Dương Quý Phi.
Nhìn Quý Phi ngủ, Minh Hoàng cười nói: “Hải đường ba thụy liễu”, nghĩa là “ Hoa
hải đường đã ngủ rồi”.
Lý
Thái Bạch lại sánh Dương Quý Phi với hoa Mẫu đơn.
Trong
khúc Thanh Bình Điệu của Lý soạn để phổ vào nhạc trong lúc Quý Phi và Minh Hoàng
thưởng mẫu đơn tại đình Trầm Hương, có câu:
Danh bạ khuynh
quốc lưỡng tương hoan
Nghĩa
là:
Thiên hương sánh với khuynh thành,
Sắc đành lẫn sắc, vui đành chung vui.
Hoa
mẫu đơn trước kia vì không chịu nở theo mệnh lệnh của Võ Hậu, nên bị đày lên
miền Bắc. Võ Hậu mất ngôi, Mẫu đơn trở lại về Tràng An và nhờ Dương Quý Phi
cùng Lý Thái Bạch mà thêm cao phẩm giá.
Nhưng
Thái Bạch ca ngợi Mẫu đơn chỉ vì Dương Quý Phi.
Ca
ngợi Mẫu đơn vì Mẫu đơn, thì có TRÌNH NGƯ MÔN đời Thanh là một. Trình có câu:
Năng giao Bắc
địa thành hương giới,
Bất phụ đông
phong thị thử ba.
Nghĩa
là:
Chúa Đông
tình chẳng phụ tình
Đã đem cõi
Bắc tạo thành cõi hương.
Người
đời Đường cũng có câu:
Quốc sắc
triêu cam tửu
Thiên hương
dạ nhiễm y.
Nghĩa
là:
Rượu sớm say
nghiêng màu quốc sắc,
Ao đêm dầm
ngát vị thiên hương.
Thật
là hay. Song chưa bằng câu:
Nộn húy nhân
khan tổn,
Kiều nghi
nhật chích tiêu.
Nghĩa
là:
Nõn nà luống
sợ người xem lấm,
Mềm mịn riêng e nắng sưởi tan.
Đó là một câu truyền thần tuyệt diệu, lột được vẻ
kiều nộn của Mẫu đơn.
Lại
có câu:
Ưng vị giá cao nhân bất vấn
Cáp viên hương thậm điệp nan thân.
Nghĩa
là:
Giá cao ưng khiến người không hỏi,
Hương ngợp nên xui bướm khó gần.
Riêng
có ký thác.
Người
đời Nguyên lại chê mẫu đơn là vô dụng:
Táo ba tợ
tiểu năng thành thiệt,
Tang diệp tuy
thô giải tác tư.
Duy hữu mẫu
đơn như đẩu đại
Bất thành
nhất sự hựu không chi.
Nghĩa
là:
Hoa táo nhỏ
mà hay kết quả
Lá dâu thô mà
nhả thành tơ.
Mẫu đơn to
lớn sởn sơ,
Không nên một
việc đành tơ nhánh tàn.
Trong
đám danh ba, mẫu đơn sắc đã đẹp hương lại đượm, nên được trân ái hơn cả, được
ca tụng nhiều nhất. Nhưng thân còn có khi bị luỵ, danh còn có khi bị chê. Đến
như cúc như mai là giống hoa nhã đạm, người thân yêu chỉ là những người thanh
cao, cho nên phi thị thị phi xưa nay
không luỵ đến.
Phẩm
giá ngang hàng với Mai và Cúc, là giống hoa Lan. Tăng Doãn Bá gọi là Phương
Hữu, Trương Mẫn Thúc gọi là U Khách, Khổng Phu Tử gọi là Vương Giả Ba. Thi Hào
KHUẤT NGUYỄN kết hoa Lan làm đồ trang sức, xem quí như ngọc châu, và tử đệ nhà
họ Vương họ Tạ đã cùng hoa lan mà nổi danh thiên cổ.
Bóng chen sân
Tạ càng cao cánh,
Tiếng nổi
đình Vương lắm phẩm đề.
Đó
là câu Vịnh Lan của cụ tú VÕ KIỂM, người làng Hưng Trị, quận Phù Cát, một danh
sỹ Bình Định, mới qua đời trên ba mươi năm nay.
HÙNG
THỨ TUYỀN đời Thanh có câu:
Bạn ngã tam xuân tiêu vĩnh trú
Thuỳ liêm nhất nguyệt bất thiêu hương.
Nghĩa
là:
Ba xuân kết bạn tiêu ngày vắng
Suốt tháng buông rèm chẳng đốt hương.
Tùy
Viên khen rằng: “Không nói đến Lan mà chính là Lan” (Tịnh phi lan ba, đích thị
lan ba). Không thấy nói đến, kỳ thật nói đến, đó là tài, một tài ba lỗi lạc.
Tài ấy tình ấy thật xứng cùng phẩm giá hoa lan.
Một
loại hoa cùng Lan, có hoa Thuỷ Tiên, phẩm giá cũng cao tuyệt. Yêu Thuỷ Tiên có
bà Châu Nguyệt Tôn, đời Thanh. Bà Châu hiệu Ỷ Hương, vịnh Thuỷ Tiên có câu
rằng:
Anh nghi phù dạ nguyệt,
Hương bất cách liêm lung.
Nghĩa
là:
Ảnh ngờ nổi trăng đêm,
Hương không cách rèm xũ.
Đó
là vịnh Thuỷ Tiên mà cũng là tự vịnh.
PHAN
SÀO NAM tiên sinh cũng là một tình nhân của Thuỷ Tiên. Bài Vịnh Thuỷ Tiên trích
dẫn trong bài “Chuyện Hoa trong Ngày Xuân” là kết quả của mối tình thơm thắm.
(1)
Chẳng
những đối với danh hoa thi nhân mới có tình. Thường hoa, như hoa lang, hoa cà,
hoa bưởi….. Vẫn được thi nhân lưu ý:
- Chơi hoa cho biết màu hoa
Hoa lang tím tím hoa cà xanh xanh.
- Hoa lài hoa lý hoa ngâu
Không bằng hoa bưởi thơm lâu dịu dàng.
Hoa
lang, hoa cà, hoa bưởi dù không sánh kịp các danh hoa, song vẫn còn có ít nhiều
hương sắc. Đến hoa LAU đã không sắc lại không hương mà thi nhân vẫn không phụ
rẫy:
Tri phủ dương
ba phiên tiện nhữ:
Nhất sanh
tùng bất thức xuân sầu.
Đó
là thơ vịnh hoa lau của người đời Thanh là LƯU HÀ THƯỜNG. Ý nói rằng “Hoa dương sanh về mùa xuân khen hoa lau biết
lựa mùa thu mà nở, nên suốt đời khỏi bị vướng mối sầu xuân”.
Viên
Mai xem câu thơ của Hà Thường mà thất sắc. Và hoa lau nhờ Hà Thường mà nổi danh
trong làng thơ.
Ngoài
các thi nhân kể trên, còn nhiều nhà yêu hoa khác. Mỗi người yêu mỗi cách, song
đại để đều thấy nơi hoa, mỗi thứ có mỗi tâm hồn, mỗi tính cách riêng biệt. Và
đối với thi nhân, hoa không phải là vật chơi qua thời, mà là những người bạn
tinh thần thân thiết.
Chẳng
những thế, thi nhân yêu hoa lại còn yêu với một niềm chung thuỷ:
Yêu hoa yêu
cả một đời
Khi phong
nhuỵ thắm khi cười gió đông,
Khi trăng xế
khi sương lồng,
Khi đà lợt
phấn phai hồng càng yêu. (2)
Rủi
cuộc yêu đương có ngắn ngủi, yêu rồi vẫn để lại chút hương vị của yêu đương:
Tình trong
giấc mộng vẫn tình
Gối hoa đã
tỉnh bên mình còn hương.
Chẳng
những thi nhân mới yêu hoa quí hoa. Cả các nhà đạo đức cũng có tình với hoa:
-
Đức Khổng Tử yêu hoa lan, gọi lan là hoa Vương Giả và thường đeo lan trong
mình.
-
Chu Thúc Mậu, một
vị đại hiền đời Tống, yêu hoa sen. Mùa sen nở đêm đêm thường cột thuyền giữa
đầm mà ngủ, để mộng mình hòa cùng mộng sen.
Lắm
nhà quyền quí cũng rất yêu hoa:
-
Vua Đường Minh Hoàng
yêu hoa như yêu cung phi mỹ nữ. Nhà vua đã đặt Dương Quý Phi bên hoa Mẫu đơn
khiến Lý Thái Bạch có khúc Thanh Bình điệu để lại nghìn thu. Nhà vua lại sai
đúc những chiếc chuông nhỏ bằng vàng, đem treo trên cành cây nơi Thượng Uyển để
đuổi chim không cho đến phá hoa. Và những lần xuân đến thường đem nhạc công
theo mình trong lúc đi thưởng hoa, để họa tấu những khúc du dương cho hoa được
hoan lạc. Do đó hễ mỗi lần nhà vua đến thì trăm hoa đua nở theo nhịp trúc ti.
-
Những tay phong
lưu phú quí đời Tống cũng như đấng quân vương, thường làm những cung đện bằng
ngọc để chứa hoa. Mỗi giống hoa có một chuyên viên phụ trách việc bón tưới cho
cây, tắm rửa cho lá. Như hoa Mẫu đơn thì giao cho mỹ nhân, và giai nhân phải
mặc lễ phục khi tắm rửa cho hoa. Hàn mai thì phải một vị tăng gầy gò xanh xao
chăm sóc.
Yêu
hoa quí hoa đến thế là cực điểm.
Nhưng
lòng yêu hoa vẫn còn ở trong vòng tình ái.
Chưa
bằng tình yêu hoa của người Nhật.
Người
Nhật đã nâng cao lòng yêu hoa thành lòng sùng kính. Và lòng sùng kính của họ
đối với hoa, thiêng liêng như một đạo giáo.
Đó
là Hoa đạo.
Hoa
đạo về hình thức là nghệ thuật cắm hoa. Có nhiều nguyên tắc, có nhiều trường
phái. Mỗi trường phái có một người lãnh đạo và có những nguyên tắc riêng biệt.
Nhưng đại để là thận trọng trong việc hái hoa, cắm hoa, đặt để lọ hoa ở một nơi
xứng đáng.
Dường
như họ chỉ chú trọng về mỹ thuật.
Nhưng
sự thật họ cố gây trong óc mọi người cái quan niệm nhất trí về thiên nhiên và
nghệ thuật, về nghệ thuật và đời sống con người, hầu tạo một bầu không khí điều
hòa tươi đẹp trong cảnh sinh họat hằng ngày.
Đó
là một cách tu thiền vậy (3)
Chỉ
có nước Nhật mới có Hoa đạo cũng như Trà Đạo.
Ở
Trung Hoa có ngày Hoa Chiêu, thường tổ chức vào ngày rằm tháng hai âm lịch, là
thời hoa nở cực thịnh. Muôn nhà từ nhà dân đến nhà quan, từ nhà nghèo đến nhà
giàu, đâu đâu cũng ăn uống, vui chơi như ngày nguyên đán đêm thượng nguyên.
Người ta cúng vị Hoa thần lúc hoa đương thời nở rộ, để cùng thần thưởng thức vẻ
đẹp hoàn toàn của thiên nhiên, mà hoa là đại biểu.
Đến
tháng tư âm lịch, hoa rụng hết, chỉ còn có hoa đồ mi (4), thì lại tổ chức lễ
tiễn Hoa thần, gọi là Giao Mang Chủng. Lễ tưng bừng không kém lễ Hoa Chiêu.
Song chỉ có những nhà có vườn hoa, những nơi có công viên, mới treo đèn kết hoa
rực rỡ thay hoa.
Tuy
lễ lạc tưng bừng, song người dự cuộc không có lòng thành kính đối với hoa như
người trong Hoa đạo của Nhật Bản.
Lòng
yêu quí hoa của ông cha chúng ta ngày xưa tưởng không kém người Trung Hoa, người
Nhật Bản, tuy không nâng lòng yêu hoa thành lòng mộ đạo như người Nhật, không có
những hình thức sang trọng như người Trung Hoa.
Lão
từng thấy nhiều vị túc nho, nhiều vị ẩn giả không bao giờ giơ tay hái một đóa
hoa đương nở hay còn búp. Và hễ gặp những cánh hoa rơi thì lượm để vào những
nơi sạch sẽ kín đáo. Không phải lãng mạn như nàng Đại Ngọc khóc hoa chôn hoa
trong Hồng Lâu Mộng. Các cụ nhặt hoa rơi một cách hồn nhiên và tự nhiên như
nhặt những tờ giấy có chữ thánh hiền bị rơi trước mắt.
Lão
còn nhớ: Năm 1925, lão đậu bằng Tiểu Học, bè bạn đến mừng. Một anh bạn thấy nơi
hàng rào có bụi hoa hường - gai (rosier sauvage) nở đầy bông, bèn hái một đóa
vừa mới nở. Bạn cầm ngửi một chốc rồi ném nơi sân. Sau khi các bạn ra về hết,
bà thân sinh của lão ra nhặt hoa và hỏi tên anh bạn kia, rồi nghiêm sắc mặt
bảo:
- Hoa mới nở mà hái
là bất nhân. Hái hoa rồi lại ném là bất nghĩa. Con không nên chơi với người ấy.
Những
bó hoa cắm trên bàn thờ lúc cúng, những bình hoa để nơi phòng khách phòng văn,
đến khi tàn, không bao giờ bị ông bà cha mẹ chúng ta quăng vào giỏ rác, hay ném
vào nơi không được sạch sẽ. Hiện thời, lên nhà quê chúng ta còn thấy những bó
hoa điệp, hoa vạn thọ khô héo gác trên hàng rào duối, hàng rào tre. Đó là những
bó hoa của các bà nội trợ cúng rằm, cúng mồng một, cúng Phật hay cúng tổ tiên.
Đó là di tích của lòng yêu hoa kính hoa của ngày xưa còn sót lại.
Di
tích tốt đẹp ấy không còn thấy ở thành thị.
Bởi
người thành thị đã nhiễm phải thói khinh bạc của hạng người tự do cho mình là
văn minh, tức là người Âu Mỹ.
Người
Âu Mỹ trồng hoa nhiều hơn người Việt Nam, và tốn phí cho hoa cũng gấp trăm
nghìn lần. Trong những phòng khách, phòng ăn, phòng làm việc, trong những buổi
lễ, trong những ngày vui…, hoa mua về cắm đầy, đầy cả hương, đầy cả sắc, nhất
là sắc, lộng lẫy huy hoàng. Nhưng cuộc vui tàn, buổi lễ tan, hoa vừa héo cánh,
thì trước kia quí trọng bao nhiêu, lúc nầy phụ rẫy bấy nhiêu. Ngàn tia muôn
hồng vừa mới ngự nơi cao sang nhất, lại bị dồn chung cùng những rác rến, những
đồ dơ bẩn của nhà bếp của sân …! Mùi hương của hoa lẫn cùng mùi hôi hám của
đồ thừa thãi, sắc thắm của hoa bị những thứ ô uế làm úng rữa, ố hoen…! Đáng lẽ
hoa còn sống còn tươi được một thời gian nữa mới trọn đời hoa, thì đã phải chết
oan chết gấp!
Tinh
thần người Tây Phương và người Đông Phương khác nhau xa quá!! Một bên thì lộ ra
ngoài. Một bên thì chìm vào bên trong. Và tình người Á - Đông, đem cách chơi
hoa yêu hoa mà so sánh, thì chúng ta thấy thâm hậu hơn người Âu Mỹ nghìn lần.
Tình
yêu quí hoa của cha ông chúng ta để lại là một trong những dân tộc tính.
Tưởng
chúng ta không nên đánh mất, trái lại còn nên vun vén trau dồi để được như
người Trung Hoa, người Nhật Bản.
Và
cách yêu quí hoa của ông cha chúng ta, của người Trung Hoa, Nhật Bản, là hình
ảnh là hành động của những tâm hồn cao đẹp, tức là hồn Thơ.
Những
người yêu quí hoa như các vị thánh hiền, các vị phong lưu đài các, như các vị
túc nho, các bà từ mẫu.. kể trên, là những nhà thơ làm bằng hành động bằng thái
độ thay thế văn chương.
Đó
là những người tâm hồn dệt bằng văn chương. Vì văn chương đâu phải chỉ ở nơi
văn tự:
Hảo điểu chi
đầu diệc bằng hữu
Lạc ba thuỷ
diện dai văn chương (5)
Cho nên thơ có câu:
Yêu hoa là khách văn chương
Vì hoa bút trổ mùi hương
khuynh thành. (6)
_________________________________________________
(1)
Xem bài “Chuyện hoa trong ngày xuân" ở
trước.
(2)
Thơ trong "Một Tấm Lòng" xuất bản
năm 1939.
(3)
Viết theo quyển Trà Đạo của OKAKURA KAKUZO do
Gabriel Mourey dịch ra tiếng Pháp với nhan đề là Le Liver du The.
(4)
Cổ thi: Khai
đáo đồ mi ba sự liễu
(5)
Chim tốt trên cành cũng là tình bằng hữu, hoa
rụng trên mặt nước thảy là những áng
văn chương.
(6)
Bài này nguyên của đứa con trai lão là Quách
Giao đề là “Ngày xuân nói chuyện hoa”, lão sửa lại và thêm thơ vào để làm tốt
cho Thi Nhân.