GỌT TỈA HOA THƠ
1.
Nắng mai trong như lọc. Lão ngồi dưới gốc mận vườn thơ
cao ngâm hai câu tức cảnh vừa nhận được khi hôm:
Gió thoảng rèm hương hoa thức ngủ
Trăng lồng hiên trúc bút thôi xao.
Riêng lấy làm thích, nhìn những giọt sương lóng lánh
mà mỉm cười. Chợt nghe sau lưng có tiếng:
- Bác ra vườn sớm quá!
Lão ngoảnh lại thì thấy hai em học sinh quen thân là Lạc
và Hải. Liền đó ông bạn già Trần Thúc Lâm đến tiếp. Lão hoan hỷ chào:
-
Chà! Mới mở hàng
đã đắc khách. Hôm nay chắc vườn hoa phát tài.
Đoạn pha trà cùng khách nhấm thơ. Trần quân nói:
-
Câu thơ ngẫu hứng
mà dường như dùng lắm công phu. Rèm Hương mà xuống hoa, Hiên Trúc mà xuống bút:
Thiệt khéo! Một bên giai nhân, một bên tài tử: Thật tình! Bút Thôi Xao: Chữ cũ
nhưng cách dùng mới…
Hải có vẻ mừng rỡ:
-
Hai chữ THÔI XAO
lâu nay cháu hiểu chưa được thấu đáo, vì tra từ điển thấy THÔI nghĩa là đẩy,
XAO nghĩa là gõ, mà ở trường thầy giáo lại giảng: THÔI XAO là lựa chữ nuốt lời
trong việc làm thơ. Nghĩa của thầy và nghĩa của sách cách nhau xa quá, nên cháu
rất lấy làm phân vân. Kính xin hai bác chỉ giáo.
Lão đáp:
-
Sách giảng đúng,
Thầy giảng đúng. Nhưng sách chỉ nói về gốc, thầy chỉ nói về ngọn. Muốn biết
hình dáng một cây tùng mà chỉ xem khúc gốc và khúc ngọn thì làm sao hình dung
được toàn thể của cây.
Trần quân tiếp:
-
Nghĩa là ở giữa
lời giảng của thầy và lời giải của sách có một sự tích về hai chữ THÔI XAO. Phải biết rõ sự tích này mới hiểu
thấu đáo ý nghĩa của hai chữ nọ.
Đoạn kể:
GIẢ ĐẢO là một thi nhân nổi danh đời Đường (618-907).
Lúc trẻ nương cửa Phật. Sau hoàn tục, thi đậu tấn sỹ.
Một hôm, mang sao đi thăm một người bạn ở ẩn, xúc cảnh
làm được hai câu ngũ ngôn:
Điểu túc trì
biên thọ
Tăng sao
nguyệt hạ môn.
Nghĩa là: Chim ngủ trên cây bên ao, nhà sư gõ cửa dưới
trăng.
Rõ là một giai cú. Nhưng lưỡng lự không biết nên hạ
chữ XAO hay chữ THÔI. Suốt đêm trằn trọc. Sáng hôm sau lên đường trở về nhà,
lòng không thôi cân nhắc chữ. Vừa đi vừa lấy hai tay làm điệu bộ xô cửa. Cứ lo
gõ rồi xô, xô rồi gõ, không để ý gì đến chung quanh. Lúc ấy có xe quan Hình Bộ
Thị Lang là HÀN DŨ đi qua, Giả Đảo không thấy cứ đi đâm sầm vào. Hàn sai lính
bắt hỏi, biết rõ duyên do, khuyên nên lấy chữ XAO.
Từ ấy hai bên trở thành đôi bạn văn chương, và hai chữ
THÔI XAO được làng thơ dùng để chỉ việc rèn câu đúc chữ.
LẠC hỏi:
-
Thưa Bác, tại sao
chữ XAO lại hơn chữ THÔI?
Trần quân cười:
-
Không thấy sách
giảng.
Lão góp ý:
-
Theo thiển kiến,
chữ XAO hơn là vì:
Trước hết giữ được lễ độ. Phàm đến nhà người, dù thân
thiết đến đâu, khách, theo phép lịch sự, không bao giờ đường đột đẩy cửa bước
vào nhà, nhất là lúc ban đêm. Xưa cũng như nay, thế nào khách cũng phải gõ cữa
rồi đứng đợi chủ nhân lên tiếng mời vào hoặc ra đón.
Sau nữa, nếu đẩy cửa bước vào nhà, thì bóng trăng trên
cửa đối với người, có cũng như không. Chớ gõ cửa rồi đứng đợi, thế nào người
thấy ánh trăng soi sáng cũng ngước mặt lên nhìn trăng. Như vậy người đối với
trăng không đến nỗi vô tình và trăng đối với người không đến nỗi vô dụng.
Chữ XAO để vào câu thơ làm cho ý thơ giàu thập bội,
cho nên giá trị hơn chữ THÔI.
Lạc và Hải đồng
thanh:
-
Không biết cổ
nhân có nghĩ như thế chăng?
Lão đáp:
-
Mình suy luận
thấy hợp lý là được, hà tất phải tìm xem cổ nhân có nghĩ hay không nghĩ như
mình, một khi cổ nhân không để gì lại làm bằng cứ. Người Tây Phương có câu “
Lire c’est creer” nghĩa là “ Đọc là sáng tạo”. Nếu cổ nhân không nghĩ như mình,
mà những điều mình nghĩ ra đó giải thích thơ văn được hợp lý, có thú vị, và
không hại gì đến cổ nhân, thì đó là sáng tạo, và đối với cổ nhân cũng như đối
với văn chương, mình có công chớ không có tội.
Trần Thúc Lâm nói:
-
Hôm nay đến tìm
Lão Vườn chính vì câu thơ của Giả Đảo, không ngờ lại gặp được 1 tân từ có chữ
THÔI XAO và hai chú em thắc mắc về hai chữ ấy. Thật có thể gọi là một cuộc tao
ngộ kỳ hy.
Lão cười:
-
Như vậy là đã
giải quyết xong.
-
Mới xong một vế,
còn 1 vế nữa: Từ trước đến giờ tôi vẫn nghe và vẫn thấy các sách quốc văn nói
về thơ Đường chép câu thơ của Giả Đảo là:
Điểu túc trì
biên thọ
Tăng xao
nguyệt hạ môn.
Nhưng vừa rồi tình cờ tôi xem một tờ báo Tự Do cũ,
thấy nơi mục “Cổ Tích bằng Tranh” do nhà văn Hiếu Chân phụ trách, lại chép là “Điểu
túc trì TRUNG thọ”. Tôi không biết địa chỉ của Hiếu Chân, nên không thể viết
thư hỏi xem ông đã trích câu ấy ở sách nào, đành phải đến nhờ Lão Vườn cho biết
chữ BIÊN hay chữ TRUNG là chữ của GIẢ ĐẢO.
- Lão không dám quả quyết vì chưa nghiên cứu kỹ. Nhưng
theo thiển ý thì chữ TRUNG thích đáng
hơn chữ BIÊN.
- Vì sao?
- Phàm người sống
cùng ngoại cảnh, khi đi đường thường hay ngó thẳng hoặc ngó lên. Người sống với
một nội tâm lúc nào cũng hay ngó xuống. Lãng Tiên Giả Đảo là một nhà sư sống
với nội tâm nhiều hơn ngoại cảnh. Đi ngang qua ao, thấy bóng cây chiếu xuống
nước, đồng thời nghe tiếng chim ngái ngủ vẳng bên tai, thì tâm hồn rung cảm,
tiếng chim bên tai tức thì giao duyên cùng bóng cây trước mắt tạo thành bức
cảnh “điểu túc trì trung thọ” mang sắc thái tâm hồn của nhà thơ. Cảnh “chim ngủ
trên cây bên ao” là cảnh thường, cai cũng trông thấy. Cảnh “chim ngủ trên bóng
cây trong ao” là cảnh phi thường, phải là những người nhìn cảnh vật bằng mắt
lẫn tâm mới trông thấy. Thơ Giả Đảo có tiếng là “hiểm quái”. Hình ảnh cảnh
tượng trong thơ tất nhiên phải là những hình ảnh cảnh tượng phi thường. Vì vậy
tôi tin rằng chữ TRUNG là chữ của nhà thơ đã được các nhà soạn văn học sử Trung
Hoa liệt vào phái Quái Đản với Mạnh Giao, Lý Hà.
Hải và Lạc lại hỏi lão:
Câu thơ:
Gió thoảng
rèm hương hoa thức ngủ
Trăng lồng
thiên trúc bút thôi sao.
Vế dưới dùng điển, vế trên không dùng điển. Như thế có
trích đoạn chăng?
Lão đáp:
-
Vế “Trăng lồng
thiên trúc bút thôi xao” không phải dụng điển. Bởi chữ THÔI XAO đã trở thành
một chữ thông dụng và khi dùng chỉ dùng với nghĩa “nghĩ thơ làm thơ” chớ không quan tâm đến, không liên tưởng
đến sự tích GIẢ ĐẢO.
Còn vế “Gió thoảng rèm hương hoa thức ngủ” không phải
tạc không. Vì sách chép rằng vua Đường Minh Hoàng thấy Dương Quí Phi ngủ liền
phán: “Hải đường ba thuỵ liễu”, nghĩa là “Hoa hải đường đã ngủ rồi”(1). Nhưng
bảo rằng dụng điển là sai. Đó chỉ dựa vào lời nói của Vua Đường để khỏi bị bắt
bẻ rằng “hoa gì lại biết thức biết ngủ”. Cũng như Trần Kế Xương dựa vào câu tục
ngữ “bán trời không chứng” (2) để làm câu:
Lúc túng toan
lên bán cả trời
Trời cười
thằng bé nó hay chơi…
Nói tóm lại, vế “… hoa thức ngủ” lấy thế câu nói của
Đường Minh Hoàng, vế “… bút thôi xao” mượn chữ trong câu chuyện của Giả Đảo.
Hai bên đều có chỗ dựa, tức là có xuất xứ, nhưng bên nào cũng chỉ dựa hơi hơi
mà thôi. Như thế là cân, là chỉnh.
Trần quân tiếp:
-
Và như thế là một
cách “phiên trần xuất tân” tức là: lật cái cũ lên để bày cái mới ra”.
Mặt trời lên cao soi nắng vào chỗ ngồi, mặt khách cũng
như mặt chủ trông vừa sáng vừa tươi… Và nâng cao chung trà khách chủ đồng cất
tiếng:
“Dương xuân
triệu ngã dĩ yên cảnh, đại khối dả ngã dĩ văn chương. Hội đào lý chi phương
viên, tự thiên luân chi lạc sự..” (3)
__________________________________________________________
(2) “Bán trời không chứng, bán rừng không giấy”. Cũng có
nơi nói “Bán trời không văn tự”, “Bán trời không mời thiên lôi”.
(3) Bài tựa “Xuân dạ yến đào lý viên” của Lý Bạch: Mùa
xuân ấm dùng mây khói mà đón mời ta, trời đất dùng văn chương mà đãi ta. Hợp
trong vườn thơm đào mận, bày tiệc vui giữa bạn bằng…
2.
Làm thơ công phu như Giả Đảo gọi là khổ ngâm.
Cổ nhân có câu:
Khổ ngâm tăng
nhập định
Đắc cú tướng
thành công.
Nghĩa là: Làm thơ công phu nhiều và khó như nhà sư
ngồi thiến cho đến lúc nhập định, nhưng khi làm được câu đắc ý thì vui sướng
không khác ông tướng lập nên chiến công.
Nỗi khổ và nỗi vui ấy đều thể hiện nơi Giả Đảo.
Trường hợp vui như trường hợp sau đây:
Một hôm Giả Đảo mặc áo cà sa cỡi lừa đi lang thang
trên đường Tràng An. Nhằm lúc mùa thu, gió thổi lá vàng bay đầy mặt đất, Giả
Đảo cao hứng ngâm:
Lạc diệp mãn
Tràng An.
Nhưng không nghĩ ra vế thứ hai, cứ cho lừa đi loanh
quanh lẩn quẩn, trí băn khoăn miệng lẩm bẩm. Chợt lừa đi đến bờ sông Vỵ Thuỷ.
Trông thấy mặt sông gợn sóng, Giả liền hạ ngay câu:
Thu phong xuy
Vỵ Thuỷ.
Cảnh thật như vẽ mà đối đáp thật sít sao:
Lá rụng đầy
Tràng An
Gió thu thổi
Vỵ Thuỷ
Dịch ra thơ:
Lá vàng trôi
ngập Tràng An
Sóng sông Vỵ
Thuỷ nhẫy tràn gió thu
Giả Đảo khoái chí, miệng đọc thơ chân thúc lừa. Lừa
nhảy tứ tung, nhảy xô vào xe quan Kinh Triệu Giả bị lính bắt về phủ giam một
đêm!
Hai lần vì thơ mà Giả Đảo đụng vào xe quan. Một lần
may vì gặp được vị quan yêu thơ. Một lần rủi vì gặp phải vị quan chỉ biết pháp
luật.
Những câu chuyện về các nhà thơ khổ ngâm xưa nay rất
nhiều. Lão xin kể thêm một chuyện nữa:
Lý Tiên Chi đời Thanh vào tá túc nơi một ngôi chùa,
nửa đêm thức dậy mở cửa sổ cho gió mát, làm bầy chim đương ngủ giật mình vừa
bay vừa kêu. Nhà thơ liền ứng khẩu:
Thôi song
kinh điểu mộng.
Nhưng rồi nghĩ mãi không đối được. Năm năm sau lên núi
cất nhà ở ẩn. Đêm đến vào giường nằm, nghe dế kêu cao hứng đối ngay được câu
trước:
Tựu chẩm
thính cùng thanh.
Hai câu ấy nghĩa là: “Đẩy cánh cữa sổ làm kinh giấc
mộng của chim; đến gối nằm thì nghe tiếng dế gọi”.
Câu chuyện trở thành một giai thoại trong làng thơ.
Chắc có bạn tự nghĩ:
- Hai câu này cũng
như hai câu của Giả Đảo trên kia được truyền tụng là do câu chuyện chớ không
phải do văn chương.
Lão xin thưa:
-
Văn chương cũng
như ý tứ trong những câu nầy mới xem qua thì không thấy gì đặc sắc. Lời thơ
bình dị, cảnh cũng là cảnh trông thấy thường ngày. Nhưng nếu chịu khó lắng lòng
thì chúng ta nhận thấy vị ngoại vị.
Thật vậy: Tràng An là nơi nổi tiếng phồn hoa đô hội,
thế mà dưới mắt Giả Đảo chỉ có toàn lá rụng và gió thu! Lá rụng ám chỉ hạng
người vô dụng sống chỉ thêm chật đất mà thôi. Gió thu ám chỉ bọn người có quyền
thế thường làm cho người dưới đau buồn phải nhăn mặt như gió thổi mặt sông. (1).
Đó là ẩn ý của hai câu trên.
Còn hai câu dưới ngậm thuyết quả báo của nhà Phật.
Mình vô tình cho con chim mất ngủ, con dế cũng làm cho mình mất ngủ trở lại một
cách vô tình. Tuy vô tình nhưng vẫn không ra ngoài vòng nhân quả.
Lại còn ý nầy nữa: Chùa là cửa từ bi. Con chim đến
nương thân tưởng đã được sống yên ổn, chẳng ngờ còn bị quấy rầy! Núi non là nơi
thanh vắng. Nhà thơ sợ người đời làm khổ, lên núi ở cho yên thân, ngờ đâu không
bị người lại bị dế phá rối. Người và vật đều là chúng sinh. Hễ nơi nào có chúng
sinh thì là có khổ ở đó. Trên thế gian này, đi đâu cho khỏi nắng trời?
Người làm thơ rút ruột ra để thêu dệt nên câu thơ hoa
gấm, thì người xem thơ cũng phải trải lòng ra để thu nhận những vị thơm chất
thắm tiềm ẩn trong lời thơ. Như thế mới khỏi thiệt thòi cho văn chương.
___________________________________________________
(1) Có sách chép rằng Giả Đảo đối được câu: “Lá rụng đầy
Tràng An” trong lúc bị nhốt. Nếu như thế thì ý vế đối Gió thu thổi Vỵ Thuỷ lại càng rõ. Song không thử bằng thấy cảnh mà
hứng thơ… và câu thơ trở thành câu sấm báo trước việc bị kẻ có quyền bắt nhốt.
3.
Một người khách viễn phương ghé vào thăm vườn, nói
cùng lão:
-
Đúc chữ rèn câu
là công việc của những thi công (Versificateur). Thi sỹ (Poète) chỉ chú trọng
phần nội dung, còn lời thì miễn sao đặt được ý.
Lão đáp:
-
Rất đúng. Song từ
xưa đến nay, có bài thơ nào lời không đẹp mà được truyền tụng? Huống nữa người
làm thơ đúc chữ rèn câu làm gì nếu không để diễn đạt cho trọn tình ý muốn phát
biểu?
Nghề làm thơ cũng như nghề làm ngà ngọc. Nếu không làm
ra công mài đũa chạm trổ thì ngọc kia ngà kia làm sao trở thành những mỹ phẩm
cao giá. Biện Hoà bị hai lần chặt chân là vì giữ nguyên viên ngọc phác. Cho nên
cẩu thả trong việc làm thơ mới có tội, chớ lao tâm khổ tứ như Giả Đạo, nếu
không khen thời thôi, sao lại nỡ đem ra chê cười?
Nhưng muốn dũa muốn mài muốn chạm muốn trổ, trước hết
phải có ngà có ngọc trong tay. Ngà ngọc đó là thi cốt thi tâm, thi tình thi
cảm… Chớ nếu dùng gỗ mục gỗ tạp mà ra công mài dũa, ra công trạm rồng trổ mây…
kết quả chỉ là những món đồ chơi trong chốc lát. Bởi vậy cổ nhân có câu:
Ngâm thi hảo
tợ thành tiên cốt
Cốt lý vô thi
mạc lãng ngâm. (1)
Nghĩa là:
Ngâm thơ cốt
tựa thành tiên
Không thơ
trong cốt chớ phiền ngâm thơ.
Khách lại nói:
- Văn chương của
các bậc đại gia hầu hết đều bình dị và xem đi xem lại vẫn không tìm thấy những
ngấn vết dụng công. Như Bạch Lạc Thiên là một.
- Đúng, nhưng không
phải đúng hoàn toàn. Bởi ngoài Bạch Cư Dị ra còn trăm ngàn đại gia khác. Huống nữa để đi tới mức dung dị, họ
Bạch phải tốn rất nhiều công phu. Ví dụ bài Tỳ Bà Hành, tác giả phải sửa đi sửa
lại không biết bao nhiêu lần. Một ông bạn đến xin bản nháp, thi nhân kéo ra một
cái rương đầy. Ông bạn đem so các bản nháp thì bản đầu và bản cuối chỉ còn
giống nhau đôi đoạn nhỏ mà thôi! Trong thơ Hương Sơn lại có câu: (2)
Cựu cú thời
thời cải
Vô phương
duyệt tánh tình
Nghĩa là “câu cũ luôn luôn sửa chữa, nhưng không hại
chi đến tánh tình vui đẹp”.
Như thế chứng tỏ rằng Bạch Cư Dị làm thơ rất công phu.
Chớ thấy văn chương bình dị mà tưởng rằng không nhọc sức thôi xao.
Thơ Mạnh Hạo Nhiên, thơ Vương Duy cũng rất thanh giản,
không có một câu nào khúc mắc khó hiểu. Ai ngờ họ Mạnh khổ ngâm đến lông mày
rụng hết, còn họ Vương lo cấu tứ đến nỗi bước lầm vào vò dấm nơi sân! (3)
Trái lại, Lý Thái Bạch uống một chung rượu viết nghìn
câu thơ, Tô Đông Pha cười cợt giận mắng đều thành văn chương. Thế mà thơ họ Lý
câu nào cũng trác luyện, thơ họ Tô không dễ gì đọc một lần mà hiểu ngay! (4) mà
đi đến chỗ “hạ bút thành thơ, xuất khẩu thành thơ” như vậy đâu phải một mai một
chiều mà được. Phải dày công hàm dưỡng, dày công súc tích. Rồi một khi hứng đến
thì thi tình thi tứ… chứa sẵn trong tiềm thức liền theo hứng mà tuôn ra như
nước nguồn tuôn suối, chớ đâu phải ngẫu nhiên mà có được ý đẹp lời hay.
Lục Phóng Ong nói rằng:
-
Văn chương vốn
thiên nhiên, hễ diệu thủ thì là ngẫu đắc (5)
Nói là “ ngẫu đắc” (làm được thơ hay một cách tình cờ,
một cách tự nhiên chớ không dùng sức cấu tạo) là vì những tình ý chứa đựng
trong người tác giả lâu ngày mà tác giả không để ý, chợt xuất hiện một cách
thình lình tưởng chừng như khi không mà được.
Chữ “ diệu thủ” trong câu nói của họ Lục chứng minh
lời của lão. Bởi làm thơ đến mức diệu thủ thì công uẩn nhưỡng tâm tư, công thôi
xao từ diệu, có phải ít ỏi gì đâu. Chính Lục Phóng Ong tu luyện đã đến mức xuất
thần nhập hoá như Lý Thái Bạch, Tô Đông Pha.
Nhiều người muốn bắt chước Bạch Lạc Thiên mà không hề
biết đến phương pháp làm việc của họ Bạch. Nhiều người muốn làm Lý Thái Bạch,
Tô Đông Pha mà không chịu tìm hiểu sở học, không chịu luyện đời sống nội tâm
cho được phong phú như họ Tô họ Lý. Như thế thì có khác gì cách làm tốt của
nàng Đông Thi.
Khách nói:
-
Theo lời bàn luận
nãy giờ, dường như lão vườn không thích thơ tự nhiên bằng thơ khắc hoạch?
-
Bất luận loại thơ
nào, hễ hay là lão thích. Nhưng chớ lầm lộn tự nhiên với nông nổi, hời hợt, dễ
dãi, cầu kỳ, dẫn điển mới lạ… là khắc hoạch.
Những bài thơ tự nhiên như bài sau đây của Phan Sào
nam tiên sinh:
CẢM TÁC
Buồn biết bao
nhiêu tức biết bao
Trách chung
chung phải tính làm sao
Thà không
trời đất không chi cả
Còn có non
sông có lẽ nào…?
Hãy quyết ra
tay chèo kéo lại
Để cho khắp
mặt ngó trông vào.
Dòng thần con
cháu hăm lăm triệu
Cũng mái đầu
đen giọt máu đào.
Và những bài thơ khắc hoạch như bài tiên sinh khóc nhà
chí sỹ Trương Gia Mô giận việc nước mà nhảy xuống núi tự tử:
Em muốn thăm
anh chửa kịp vào
Đi đâu? Anh
vội chán đời sao?
Lánh tần may
có nguồn đào nữa
Tìm Tống e
không mảnh đất nào!
Mây bạc nước
non người vắng vẻ
Chim vàng mưa
gió bạn lao xao!
Giang nam còn
phú ai chăng nhớ?
Tiếng cuốc
đầu ghềnh mấy đoạn đâu.
Bài trên tự nhiên mà hàm súc. Bài dưới khắc hoạch
nhưng không hề có ngấn rìu búa trong việc dụng công, không hề có dấu dao kéo
trong việc dụng điển. Thơ như thế là đã lên đến bậc thượng thừa.
Gặp được những bài thơ như hai bài trên thì lão đắm
hồn trong hương vị. Mà một khi hồn đã đắm thì còn phân tách sao được hương vị
nào hơn hương vị nào để có thể sanh lòng khinh trọng, trọng khinh.
Cho nên lực thơ cho Vườn Hoa, lão trải lòng đón tất cả
những phấn hương của các thi hữu vui lòng gởi tới.
___________________________________________________________
(1) Nhâm thi đây có nghĩa là làm thơ: Khổ ngâm, ngâm
khách (làm thơ khắc khổ, khách làm thơ).
(2) Hương Sơn là biệt hiệu của Bạch Cư Dị
(3) Theo Tuỳ Viên Thi Thoại.
(4) Trong Tuỳ Viên Thi Thoại có nói.
(5) Nguyên văn: Văn
chương bổn thiên nhiên, diệu thủ ngẫu đắc chi giã. (Lục Phóng Ong người đời
Tống.)
Ngẫu đắc là tình cờ mà làm được câu hay.
4.
Nhờ câu chuyện THÔI XAO mà Giả Đảo được phần đông
khách Hàn Mặc Tử làm đại biểu cho phái ngâm thơ khắc khổ. Chớ trên thực tế còn
nhiều người khổ ngâm tưởng còn hơn Giả Đảo bội phần. Bởi Giả Đảo mới:
Lưỡng cú tam
niên đắc
Nhất ngâm
song lệ lưu
Nghĩa là:
Ba năm lòng
gởi hai câu
Ngâm lên một
tiếng lệ châu ướt đầm
Có người đến nỗi:
Ngâm thành
ngũ cá tự
Dụng tận bán
sanh tâm
Nghĩa là:
Đúc năm chữ thành
thơ
Lòng nửa đời
dụng trọn!
Hoặc:
Vị cầu nhất
tự ổn
Nại đắc bán
tiêu hàn
Nghĩa là:
Vì mong một
chữ vừa lòng
Mà thân chịu
nổi lạnh lùng nửa đêm.
ĐỖ PHỦ cũng là một khổ ngâm ông. Thấy Tử Mỹ (1) làm
thơ khắc khổ, Lý Thái Bạch chế diễu:
Phạn quả sơn
đầu phùng Đỗ Phủ
Đầu đái lạp
tử nhật trác ngọ
Tá vân nhân
hà thái sấu sinh
Chỉ vị tòng
lai tác thi khổ.
Nghĩa là:
Cơm đầu núi
gặp chàng Đỗ Phủ
Nón lá kè che
tủ nắng trưa.
Hỏi sao gầy
gọ bơ phờ?
Chỉ vì kham
khổ cùng thơ bấy chầy.
VIÊN TỬ TÀI, nhà thơ chú trọng tính linh, ngâm thi
cũng rất khổ khắc.
Trong Tuỳ Viên Thi Thoại có kể một câu chuyện Tử Tài
làm một bài thơ đi hạ một danh sỹ trùng phó quỳnh lâm (2). Bài thơ chỉ có 4 câu
mà phải thôi xao mất nửa tháng, và phải sửa đi sửa lại mất bảy lần! Người bạn
là Tâm Du xem bản thảo, công nhận rằng bản thứ 7 quả hơn bản thứ 5 thứ 6. Nhân
đó Viên Tử Tài có câu:
Sự trùng tru
hối phương trưng hảo
Thi đáo năng
trì chuyển thị tài.
Nghĩa là:
Việc biết hối
rồi thường hoá tốt
Thơ nhờ xong
chậm trở thành hay.
Làm thơ khổ như thế cho nên mới có những thành ngữ: “Điêu
trùng” là chạm trổ sâu bọ, “Âu tâm lũ cốt” là mửa lòng chạm xương, “điêu khắc
tâm tư”, “ khắc hoạch tâm tư”… để nói việc làm thơ. Và có một bộ sách nói về
thơ lấy tên là “Văn tâm điêu long” (Lòng văn chạm rồng).
Có người hỏi lão:
-
Trong làng thơ
Việt Nam
có người nào như các thi nhân Trung Hoa đó chăng?
-
Lão chỉ biết được
hai người là SÀO NAM
tiên sinh và TẢN ĐÀ tiên sinh.
Phan tiên sinh tuyên bố trên báo Tiếng Dân rằng đã
dùng nhiều công phu nhiều tâm lực để thôi xao những vần thơ quốc âm đăng tải
trên báo chí.
Nguyễn tiên sinh tự ví mình như con tằm rút ruột:
... Dâu xanh rút
giả sợi tơ vàng
Thân thế con
tằm những vấn vương
Tớ nghĩ thân
tằm như phận tớ
Tơ tằm đói
đoạn mối văn chương …
……………………………………
Bao nhiêu củi
nước mới thành văn
Được bán văn
ra chết mấy lần
……………………………………
Năm 1932, Tiên sinh hứa sửa dùm cho lão mấy chữ đối
không chỉnh trong câu trạng bài thơ Tự Thuật được bình giảng trên mục Văn Đàn
Giảng Luận của tờ An Nam
Tạp Chí:
Lúc hứng ngửa
nghiêng trời đất rộng
Ngồi buồn xáo
trộn cổ kim chơi .
Đến năm 1935, Tiên sinh viết thư vào cho biết rằng
suốt ba năm trời, những lúc rảnh thường nghĩ tìm chữ đối, nhưng không sao tìm
được chữ vừa lòng, nên đành giao hoàn nguyên tác.
Tản Đà tiên sinh vốn lấy văn chương làm sự nghiệp, thì
phải khổ cùng văn chương đã đành. Đến như Phan Sào Nam tiên sinh suốt đời tận tuỵ cho
Cách Mạng, và thường ngâm, từ lúc trẻ, câu thơ của Tuỳ Viên:
Mỗi phạn bất
vong duy trúc bạch
Lập thân tối
hạ thị văn chương
Nghĩa là:
Ngon miệng
bữa thường riêng trúc bạch
Lập thân hèn
nhất dụng văn chương (3)
Mà cũng phải khổ vì văn chương, thì biết rằng văn
chương có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với những người có tâm hồn, và một khi đã
mắc vào thì suốt đời phải mang lấy nghiệp.
Nhưng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đành
trách lẫn trời gần trời xa.
_______________________________________
(1) Đỗ Phủ tự Tử Mỹ hiệu Thiếu Lăng.
(2) Đậu tấn sỹ lần thứ hai.
(3) Trúc bạch là tre và lụa. Ngày xưa chép sử vào tre và
lụa. Câu của Tuỳ Viên, đại ý nói: Hàng ngày hễ bưng chén cơm ăn thì lòng chỉ
mong sao lập nên công trạng với nước non để nghìn thu danh được lưu sử sách;
còn như muốn xây sự nghiệp mà dùng văn chương thì đó là dùng một phương tiện
thấp hơn tất cả mọi phương tiện khác.