13. THƠ CÁC TRIỀU ĐẠI TRUNG HOA
Nha
Trang, Thượng tuần tháng Hai năm Đinh Tỵ (1977)
Thanh
Quang,
Nói
đến luật thi thì thơ Đường được đề cập đến nhiều nhất.
Đó
là do Thi lục xuất phát từ đời Đường. Thơ Đường đã nhiều, lại nhiều bài hay,
hay nhiều vẻ.
Người xưa có câu: ‘Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm’. Nghĩa là 'Thơ
đời Đường, chữ đời Tấn, văn đời Hán, đó là ba nghệ phẩm tuyệt diệu trên thế
gian’.
Đại khái là thế. Chớ đi sâu vào chi tiết thì từ
Đường đến Thanh, mỗi đời có mỗi tánh chất, mỗi sắc thái, mỗi ý thú… riêng. Và
trong mỗi đời, mỗi thi nhân có mỗi đặc điểm riêng. Những cái riêng biệt ấy
không thể nào đem so sánh hơn thua.
Chúng ta không phải là những nhà nghiên cứu, mà chỉ
là những người đi tìm cái hay, cái đẹp trong thơ để thưởng thức. Thơ là hoa mà
chúng ta là bướm. Nếu có thể bước thêm một bước nữa, thì làm con ong để gầy
chút mật cho con cháu, sau khi nếm được vị ngọt hương thơm của hoa mà chúng ta
gặp được nơi vườn, nơi đồng, nơi rừng núi…
Tôi cũng muốn nói đại lược cho Thanh Quang cùng các
em yêu thơ biết chỗ đặc sắc trong thơ của mỗi thời đại, hầu giúp gậy để các em
chống đi trên đường thơ thăm thẳm và gập ghềnh. Nhưng 'trói voi bỏ rọ', tôi đã
hao nhiều công sức, đã tốn nhiều thì giờ, mà rốt cuộc rọ bị hư, voi vẫn hai chân
trước đi trước hai chân sau đi sau… tôi chợt nhớ đến lời người xưa tả nhan sắc
của Tứ Đại Giai Nhân:
Tây Thi: nghiêng nước nghiêng thành
Chiêu Quân: Nhạn sa cá lặn
Điêu Thuyền: sắc nước hương trời
Lục Châu: hoa nhường nguyệt thẹn
Và lời của Tố Như tiên sinh tả nhan sắc của Thuý
Vân, Thuý Kiều:
Hoa cười ngọc nói đoan trang
Mây
thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa
ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Đố nhà hoạ sĩ đại tài nào có thể theo đó
mà đưa những nét đặc sắc của mỗi giai nhân.
Âu đành nhường công việc phân tách, so
sánh… cho các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu văn học. Chúng ta hãy cùng nhau
làm ong làm bướm dạo vườn hoa…
Mỗi thời đại, chúng ta thưởng thức một
vài đoá. Gặp đâu hay đó, chúng ta không chọn lựa màu sắc hương vị, không phân
biệt hoa của ngươi có đại danh hay không có danh. Bởi thơ là hoa, mà:
Hoa nào hoa lại
không hương sắc
Một cánh hoa
tươi một điểm tình.
Đây, một bài thơ Đường: ĐĂNG LẠC DU
NGUYÊN
Hướng
vãn ý bất thích
Khu
xa đăng cổ nguyên
Tịch
dương vô hạn hảo
Chỉ
thị cận hoàng hôn.
Đó là tác phẩm của LÝ THƯƠNG ẨN, một thi
hào nổi tiếng về những bài ‘vô đề’ diễm lệ, tổ lối thơ ‘Hương liêm’ tức là lối
thơ tình thơm thắm (Hương liêm là Hộp thơm của giai nhân dùng đựng phấn sáp).
Phái thơ của ông, đời sau gọi là phái CHI PHẤN. Bài thơ thượng dẫn không thuộc
lối hương liêm. Đó là nổi buồn trước cảnh già là buổi chiều của cuộc đời sắp
tắt: LÊN CAO NGUYÊN LẠC DU
Trời hôm ý chẵn thích
Dong
xe lên cổ ngươn
Tịch
dương cảnh đẹp vô ngần
Riêng
thương tấc bóng đã gần hoàng hôn
Một
tiếng thở dài nhỏ như tơ mà dài bất tận.
Gò Lạc Du là nơi có nhiều mồ mả. Nhìn cảnh chiều,
nhìn mồ mả, mà nghĩ đến khoảnh thời gian ngắn ngủi còn dành lại cho tuổi già,
thì lòng ai khỏi bồi hồi ảo não. Người thường còn thế huống là thi nhân là kẻ
nhiều cảm nhiều sầu.
Đứng trước cảnh chiều, trong nơi trước có người ở,
bây giờ bỏ hoang, người đời Tống có thơ:
Tiểu
đào vô chủ tự khai hoa
Yên
thảo mang mang đới vãn hà
Kỹ
xứ bại biên vi cố tỉnh
Hướng
lai nhất nhất thị nhân gian
Tạm dịch:
Khóm
đào không chủ vẫn đơm bông
Khói
cỏ đìu hiu quyện rán hồng
Dậu
để đòi nơi bao giếng cạn
Xưa
kia xúm xít cửa nhà đông.
Nỗi
buồn không sâu sắc cũng không bao la.
Tôi
liên tưởng đến bài SƠN PHÒNG XUÂN SỰ của Sầm Tham đời đường:
Lương viên nhật
mộ loạn phi nha
Cực mục tiêu
điều tam lưỡng gia
Đình thụ bất tri
nhân khứ tận
Xuân lai hoàn
phát cựu thời hoa.
Tạm dịch:
Ngày
tối vườn Lương quạ rộn ràng
Đìu
hiu năm bảy nóc nhà hoang
Cây
sân chẵng biết người đi hết
Xuân
đến cành xưa vẫn nở hương.
Sức truyền cảm mạnh hơn bài trước. Bài
thơ Tống đi từ hoa đến người, bài thơ Đường đi từ người đến hoa. Tống sau
Đường. Ngờ rằng người sau chịu ảnh hưởng người trước, nhưng tình trong lòng
cũng như cảnh trước mắt đều khác nhau, nên mỗi bên có mỗi ý thú riêng.
Nhưng hoa trong cả hai bài đều vô tình
đối với người.
Có phải thảo mộc vốn vô tình chăng?
Chưa chắc.
Sách Sơn Phòng Tuỳ Bút chép rằng:
Cây hoa quỳnh ở Dương Châu là một cây
hoa độc nhất ở Trung Quốc. Niên hiệu Đức Hựu đời Tống, năm Ất Hợi có nạn xâm
lăng. Quân nhà Kim ở phía Bắc tràn xuống Dương Châu. Hoa quỳnh năm ấy không nở.
Một thi sĩ đương thời có bài thơ viếng hoa:
Danh
thiện vô song khí sắc hùng
Nhẫn
tương nhất tự báo đông phong
Tha niên ngã nhược tu ba sử
Hợp truyện Quỳnh Phi liệt nữ trung
Nghĩa là:
Danh vốn không hai khí sắc hùng
Nỡ đem một chết tạ đông phong
Năm nào ta viết thiên hoa sử
Liệt nữ Quỳnh Phi truyện chép chung.
Đọc xong bốn bài
thơ Đường, Tống rồi, Thanh Quang thử dừng lại để lại để kiểm điểm xem cảm tưởng
mình như sao. Có phải thơ Đường vị nồng hơn thơ Tống chăng? Nhưng đối với những
bạn trí thắng tâm, thì thơ Tống sẽ được ưa thích hơn thơ Đường, vì ý hậu, lời
bình, chân tình, biểu lộ rõ rệt.
Đó là nói riêng mấy
bài thượng dẫn, chớ không phải nói chung về thơ Tống, Đường. Và những bài thượng
dẫn là nhớ mà chép chớ không phải chọn lựa những bài tiêu biểu để minh chứng sự
khác biệt của đôi bên. Nhưng ‘vô tình mới thật hữu tình’. Thanh Quang và các em
nên lưu ý đến điểm đó.
Bây giờ, chúng ta
hãy bước sang vườn thơ nhà Nguyên.
Nhà Nguyên nổi
tiếng về Tuồng. Thơ không được xuất sắc, nên truyền bá không được rộng bằng thơ
Tống thơ Đường. Ở Việt Nam ta rất ít người thuộc; nhất là từ khi Hán tự không
còn được trọng dụng nơi cửa công và nơi trường học, thì dường như không mấy ai
còn nhớ rằng nhà Nguyên vẫn có thơ, và nói đến thơ Trung Hoa, người ta chỉ nhắc
đến thơ Đường, thơ Tống.
Đây, một bài thơ
Nguyên: CÁCH LIÊM MAI
Ngọc đường chỉ xích hữu thần tiên
Thuý bạc lung xuân tín bất truyền
Nhật mộ tương tư vân thụ diếu
Nhất hoằng thu thuỷ nguyệt quyên quyên (1)
Nghĩa là: MAI CÁCH
RÈM
Tấc gang nhà ngọc có thần tiên
Màng thuý lồng xuân tin chẳng truyền
Thương nhớ ngày chiều mây thẳm thẳm
Dòng trong sóng lạnh ánh thuyền quyên.
Mượn mai để nói
người. Ý không mới lạ, nhưng lời đẹp tình nồng. Rõ là giai tác. Đọc thêm một
tuyệt nữa: ỨC MAI
Thiều thiều xuân tím cách Giang Nam
Tịch tịch phương tâm phụ tuế hàn
Thanh điểu bất lai tiên mọng diếu
Nguyệt minh
không tự ỷ lan can.
Nghĩa
là: NHỚ MAI
Tin xuân vời vợi
cách Giang Nam
Quạnh quẽ lòng
hương phụ tuế hàn
Vắng bóng chim
xanh xa bóng mộng
Lạnh lùng trăng
sáng tựa lan can.
Bài
này cũng như bài trên, văn chương tú nhã và niềm nhớ thương vừa trong trẻo vừa
xa xôi. Giá trị thật không nhỏ.
Thơ
như thế, đời Nguyên không hiếm. Song vì bị tuồng lấn át, nên không được đương
thời và hậu thế săn sóc nâng niu. Mà ở đời nếu không được săn sóc nâng niu, thì
tài hoa khó mà nảy nở, khó mà nẩy nở đến cực điểm.
Thơ
đời Minh cũng vậy, cũng bị tuồng rồi đến tiểu thuyết thu hút phần lớn tác giả
có tài và độc giả có khả năng thẩm mỹ. Đúng hơn là người đương thời thích xem
tuồng xem tiểu thuyết hơn xem thơ, nên khách văn chương phần đông bởi thơ theo
tuồng và tiểu thuyết. Nên thơ Minh và Nguyên không phồn thạnh bằng Đường Tống,
là do hoàn cảnh chớ không phải nhân tài.
Trong
số thơ Minh mà tôi được xem, tôi gặp được nhiều giai cú: SƠN TRUNG BIỆT HỮU
Nhất thượng hương đài khán lạc huy
Sa thôn cô thụ vãn y y
Lão tăng bất xuất thanh sơn tự
Chỉ hữu chung thanh tống khách qui.
Tạm dịch:
Thẳng tới đài hương ngắm bóng chiêu
Cây cối làng cát dàng thiu thiu
Tăng già chẳng tiện xa sơn tự
Tiễn khách hồi chuôngvọng tiếng theo.
Cảnh
thanh u, tình cao khiết. Một khí buồn em em lành lạnh thấm lần vào tâm hồn
người đọc như hơi sương chiều buổi đầu thu. Vị thơ là vị nước suối trong, người
ưa thịch trà thơm rượu ngon không dễ gì nhận thức chân giá trị.
Đó
là thơ của CAO KHẢI, một danh bút thời Minh sơ còn truyền được nhiều giai tác.
Thời
Minh sơ, phần đông thi nhân đều mô phỏng cổ nhân. Đến cuối đời Minh, phái lãng
mạn xuất hiện. Thơ thay đổi cả chất lẫn thái. Một trong số thi nhân dẫn đầu
phong trào là ĐƯỜNG DẦN tự là Bá Hổ.
Bá
Hổ là một mỹ nam tử, đa tình mà cũng đa tài. Thơ được nhiều nhười ưa thích. Tôi
thuộc được hai bài ĐỐ HOA (tức là GHEN VỚI HOA).
Bài
thứ nhất:
Phù dung hoa
phát mãn giang hồng
Tân đạo phù dung
thắng thiếp dung
Kim nhật thiếp
tùng ba hạ quá
Như hà nhân bất
kháng phù dung.
Tạm
dịch:
Hoa phù dung nở
hồng mặt nước
Người đều khen
hoa đẹp hơn em
Bên hoa em thử
đi kèm
Cớ chi người lại
chẳng thèm nhìn hoa.
Tứ
thật mới! Mà niềm ghen cũng thật dễ thương!
Bảo
hoa đẹp hơn em, sao em đi bên hoa, ai nấy đều nhìn em chớ không ai nhìn hoa?
Rõ
là lời nói lẫy của cô con gái biết mình đẹp và được yêu chìu.
Nhưng
ở đây mới hờn, chớ chưa giận.
Hãy
đọc tiếp bài thứ hai:
Tạc dạ hải đường
sơ trước vũ
Sổ đoá kinh dinh
kiều dục ngữ
Giai nhân hiểu
khỉ xuất loan phòng
Chiết lai đối
cảnh tỷ tân trang
Vấn lang: Hoa
hảo nô nhan hảo?
Lang đạo: Bất
như hoa yểu điệu.
Giai nhân dương
hạ phát kiều sân
Bất tín tử hoa
thắng hoặt nhân
Tương hoa nhu
toái tịnh lang tiền
Thỉnh lang kim
dạ bạn hoa miên.
Tạm
dịch:
Mưa khi đêm thấm
đọ hải đường
Đôi đoá hoa nở
đầy đặn
Trông đẹp dường
muốn nói năng
Giai nhân sáng
dậy
Lững thững bước
ra cửa loan phòng
Hái hoa đem về
đối kính
So sánh cùng nét
mới điểm trang
Hoa đẹp hơn, hay
em đẹp hơn?
Giai nhân nũng
nịu hỏi tình lang
Lang rằng
Nét yểu điệu em
đâu bằng hoa được
Giai nhân nghe
liền nhíu đôi mày nga
Bụng nghĩ rằng
Hoa chết so với
người sống
Lẽ đâu mà lại
hơn
Rồi xé vụn hoa
Quang trước mặt
Nửa giận nửa
hờn:
Đêm nay chàng
hãy ôm hoa mà ngủ
Chớ có lờn vờn
lại bên em.
Hờn
dễ thương mà giận cũng thật dễ thương. Cho nên tác giả dùng chữ ‘Kiều sân’ vừa
đẹp lời vừa đẹp ý.
Cả
hai bài đều thanh lệ nhưng đều tự nhiên. Thật đáng tán thưởng.
Nhưng
phần đông thi nhân thời Minh lớp thì nệ cổ, lớp thì nặng về lối thơ cử nghiệp,
nên sanh ra bệnh hình thức làm cằn cổi nội dung.
Sang
đời Thanh, thơ trở lại thời thạnh vượng của Đường, Tống. Thơ có nhiều tánh
chất, nhiều sắc thái. Về bên nghệ thuật, thơ Thanh lại còn tinh tế hơn các thời
trước. Đó là nhờ thi nhân biết thủ xả những ưu khuyết của tiền nhân, và đúc kết
những tinh hoa của nghìn xưa lại thành mật ngọt.
Nổi
tiếng nhất thời Thanh là Vương Sỹ Trinh và Viên Mai. Vương thì xướng thuyết 'thần
vận’. Viên thì chủ trương ‘tính linh’. Được phần đông hoan nghênh và hưởng ứng
là Viên Mai.
VIÊN
MAI đối với Vương Sỹ Trinh là hàng hậu bối.
Ông
tự là Tử Tài, hiệu là Giảng Trai. Người đời gọi là Tuỳ Viên Tiên sinh. Học
rộng, tài cao, văn chương kiệt xuất.
Người
đương thời khen:
Cổ
kim chỉ thử sổ chi bút
Quái
tai quân dĩ thủ trì
Nghĩa là:
Xưa
nay bút chỉ mấy cây
Quái
thay dồn cả vào tay ông cầm.
Tánh
tình lại rất phong lưu phóng khoáng.
Đời
phê bình:
Kỳ
nhân dữ bút lưỡng phong lưu
Hồng
phấn thanh san bạn bạch đầu.
Nghĩa là:
Phong
lưu bút cũng như người
Non
xanh má phấn không rời tóc sương.
Và
Tử Tài có bộ Tuỳ Viên Thi Thoại rất hay. Những người ghiền thơ, Việt Nam cũng
như Trung Quốc, đều lấy làm sách ‘gối đầu giường’. Người Việt Nam thuộc được
nhiều thơ Thanh, phần lớn nhờ Tuỳ Viên Thi Thoại.
Có
dịp chúng ta sẽ nói nhiều về tập thi thoại này, về thơ đời Thanh cùng các đời
trước. Bây giờ xin tạm dừng tay, vì thư đã quá dài. Món ăn dù ngon đến đâu cũng
chỉ ngon lúc bụng còn thấy đói.
___________________________________________________________________
(1) Trong tập
‘Nguyên thi tuyển’ chép là ‘Thu Thuỷ’. Tôi thiết tưởng ‘Thanh Thuỷ’ đúng hơn,
vì câu 2 có ‘xuân’ thì lẽ đâu câu 4 lại xuống ‘thu’. Huống hồ, thi vịnh mai đời
Tống có câu: ‘sở ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển’. Tác giả đời Thanh mượn chữ cũ
để cho ăn với mai.
(2) Mấy cây bút đó
là ám chỉ các đại danh Đường Tống: Lý, Đỗ, Âu, Tô.
_____________________________________________________________________
14. TÙY VIÊN THI THOẠI
Nha Trang, tiết Thanh Minh năm Đinh Tỵ (1977)
THANH
QUANG
Sách
Thi Thoại của Trung Hoa rất nhiều, và nhiều tập có giá trị. Nhưng được hoan
nghênh nhất là bộ Tuỳ Viên Thi Thoại của Viên Mai.
Bộ
sách nầy là một tác phẩm lớn có nhiều đặc điểm, như:
- Lời văn tao nhã đôn hậu,
- Ý kiến sâu sắc và mới mẻ,
- Lời bàn luận xác đáng và công bình
- Thơ trích dẫn đã nhiều, nhiều loại,
lại nhiều bài hay, nhiều bài hay mà ít người được biết.
Ở
Việt Nam, bộ thi thoại này đã được phổ biến trong làng Thơ Cũ đã trên trăm
năm. Thời Pháp thuộc, nhà văn Phan Khôi muốn đem dịch ra Việt văn để giúp ích
cho những người yêu thơ cũ mà không biết chữ Hán. Nhưng nhận thấy khó quá, đành
gác bút.
Khó,
không phải khó ở phần dịch nghĩa, mà khó ở điểm lột cho được ý sang cho được
thần của nguyên tác, qua dịch văn nhất là đối với đa số bài thơ câu thơ hàm súc
vi diệu.
Cũng
có người muốn rút những ý kiến hay, những tài liệu quý, để soạn một bộ thi
thoại Việt Nam. Song không có sẵn thơ hay bằng quốc âm để dẫn chứng. Dùng thơ
chữ Hán mà không chuyển được cái hay sang chữ việt thì không bổ ích gì cho
những người không thể tự rút, không thể nhận thức được thấu triệt những cái hay
ở nguyên văn. Cho nên cũng đành bỏ ý định.
Nghĩ
người trước đã không làm, mình nay cũng không nên làm. Bởi đã làm thì phải làm
cho chu đáo, bằng tự biết không thể làm chu đáo được thì đừng làm còn hơn.
Nhưng để thoả mãn phần nào sự đòi hỏi của Thanh Quang cùng các em, tôi xin
trích ra đây một ít thơ hay, một ít ý kiến hay, một ít tài liệu quí… mà tôi liệu
có thể dịch mà không phản, dịch mà không diệt. Đó cũng là một cách bổ túc cho
bức thư thơ kỳ trước chưa nói hết đã phải ngừng.
Trước
hết tôi xin thuật lại lời Tuỳ Viên nói về thơ Đường luật:
Thơ
Thất luật khởi đầu từ Thạnh Đường, giống như quốc gia mới gầy dựng. Cung thất
tuy có, nhưng chẵng qua mới sáng kiến qui mô, thọ lập giá tử. Nơi động phòng,
nơi khúc thất…, những cữa võng, câu lơn hãy còn chưa tề bị. Đến đời Trung
Đường, Vãn Đường mới thật hoàn bị. Tới đời Tống, đời Nguyên, càng xuất càng kỳ.
Thất Tử đời Minh khôpng biết lẽ ấy, muốn kẹp thiên tử để sai chư hầu, khiến cốt
trống tuy lập mà những chỗ hay diệu đều bỏ. Nên Hoài Nam Tử bảo: ‘chim anh Vỏ
hay nói mà khôgn hay được sở dĩ làm sao mà nói ra câu ấy’ (Anh võ năng ngôn,
nhi bất năng đắc kỳ sở dĩ ngôn).
Đó
là Tuỳ Viên chỉ trích thi nhân đời Minh hô hào ‘Văn thì phải theo Tần, Hán, thơ
thì phải theo thịnh Đường’. Trong số người đề xướng có 7 nhà văn có danh lớp
trước, gọi là Tiền Thất Tử. Trong số người hưỡng ứng có 7 nhà văn có danh lớp
sau, gọi là Hậu Thất Tử. Ngoài ra còn nào Tiền Ngũ Thử, Tục Ngũ Tử, Mạt Ngũ Tử…
những tử ấy chỉ mô phỏng cổ nhân, chế không có sáng kiến gì khác. Tuỳ Viên
không chỉ trích thẳng, chỉ đem lời của Hoài nam Tử ra làm mũi tên.
Thi
nhân đời Minh chủ trương phục cổ, song nhóm này theo Thịnh Đường, nhóm khác
theo sơ đường, công kích lẫn nhau không ngớt. Rồi đến phong trào lãng mạn nổi
dậy rầm rộ, và kéo hàng chục triệu người theo. Nhưng cũng như phái phục cổ quá
nô lệ cổ nhân, phái lãng mạn quá độ không có được nhiều thành tích lớn đẹp.
Tuỳ
Viên không thích thơ đời Minh. Trong tập Thi Thoại, thỉnh thoảng tôi gặp những
lời chỉ nghị, nhưng không thấy có thơ trích dẫn. Còn thơ các đời khác từ Đường
đến Nguyên, Thanh, đều được đưa ra giới thiệu với những lời khen hay chê rất
tao nhã, tinh thâm:
“Thi
có chỗ nhận giả làm chân, mà diệu. Như người nhà Đường, trong bài TÚC HOẠ SƠN
có câu:
Nguy lan uỷ biến
đô vô muội
Du khủng tinh hà
truỵ nhập lâu
(1)
Như
người đời Tống, vịnh MAI BA TRƯỚNG, có câu:
Hồ đồng tế tảo
tiêu tương đạm
Do khủng tàn hoa
lạc chẩm bàng
(2)
“Còn
có chỗ nhận chân làm giả, mà diệu. Như người đời Tống vịnh Tuyết Trung Quan kỵ:
Cáp tợ xuân phong tam nguyệt bán
Dương ba phi xứ mẫu đơn khai (3)
Như người đời Nguyên vịnh Mỹ Nhân Sơ
Đầu:
Hồng
tuyết hốt sanh trì thượng ảnh
Ô
vân bán quyển cảnh trung thiên (4)
“Thơ phú quí mà tuyệt diệu, như thơ đời
Đường:
Du đắc vi ngâm tà ỷ trụ
Mãn y ba lộ thính cung oanh
Như thơ đời Tống:
Nhất
viện hữu hoa xuân trú vĩnh
Bát
hoang vô sự chiếu thơ hy (5)
Chúc
hoa tiệm ám nhân sơ thụy
Kim
áp vô yên khước hữu hương (6)
Nhân
tán thu tiên nhàn quải nguyệt
Lộ
linh hồ điệp lãnh miên hoa (7)
Như thơ đời Nguyên:
Cung
nga bất thức trung thư lệnh
Vấn
thị thuỳ gia mỹ thiếu niên (8)
Trụ
trung lung đắc triều thiên bút
Trú
nhật qui lai hựu hoạ my (9)
Bổn triều (tức triều Thanh) Thương Bửu Y
có câu:
Liêm
ngoại nồng vân thiên tợ mặc
Cửu
hoa đăng hạ bất tri hàn
Na
năng cách ký xuân minh mộng (10)
Áp
tẫn nồng hương thị yến qui (11)
Than Nha Tây thiếu tể có câu:
Lâu
đài oanh điệp xuân huyên tảo
Ca
vũ giang san nguyệt trụy trì (12)
Tư khấu Trương Đắc Thiên có câu:
Nguyện
đắc hồng la thiên vạn thất
Mãn
thiên tháp địa tú oang ương (13)
Những câu ấy đều là những tuyệt cú. Ai
bảo rằng ‘lời nói vui vẻ khó hay’? (hoan ngu chi ngôn nan công gia?).”
Tôi trích một đôi đoạn ngắn để Thanh
Quang cùng các em nếm qua cho biết ý vị của Tuỳ Viên Thi Thoại.
Trên đây tôi nói rằng tôi trích một ít
thơ… mà tôi liệu có thể dịch được. Nói vậy là vì những câu thơ tôi trích đó,
tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần và tưởng rằng mình đã nắm được cái hay của hình
thức lẫn nội dung. Không ngờ khi chép ra mặt giấy, tôi bị lúng túng như đứng
trước một giai nhân vừa thanh lệ vừa cao nhã, tự thấy rằng minh không đủ khả
năng chuốt chữ lựa lời tương xứng, để thực hiện ý định của mình. Nghĩ rằng xưa
nay thiên hạ thích Tây Thi là thích nàng Tây Thi làm nghiêng thành đổ nước của
Ngô Phù Sai, chớ không ai thích xác chết của Tây Thi dù xác được ướp thành 'mô
mi' (Momie) bất hủ. Cho nên tôi đành chú giải nghĩa đen để các em tự tìm lấy
cái hay cái đẹp trong nguyên tác. Điều này đối với các em có hơi khó. Vì vậy
tôi không dám trích nhiều mặc dù còn vô số
thơ giai diệu.
Nhưng ngày xuân còn dài, vườn hoa xưa
còn thắm. Nếu các em thấy thích thì tôi sẽ lựa thêm một số nữa gởi đến các em.
_____________________________________________________________________
(1)
Nghỉ
đêm trên Hoạ Sơn: Nơi câu lơn cao đã tựa khắp mà vẫn ngủ không được, con sợ
dòng sông ngân rụng xuống bay vào lầu.
(2)
Vịnh
Trướng thêu hoa mai: gọi tiểu đồng quét kỹ chiếu tiêu tương (chiếu bằng tre
bông), còn sợ hoa tàn rụng bên gối.
(3)
Trong
tuyết ngấm kỵ nữ: y như gió xuân lúc nửa tháng ba.
Nơi
hoa dương bay, hoa mẫu đơn nở.
(4)
Mỹ
nhân chải đầu: Tuyết hồng bỗng sanh bóng trên ao,
Mây đen
nửa cuốn trời trong kính.
(5) Thơ Đường: - Dựa nghiêng nơi trụ, ngâm khẽ khẽ một cách đắc ý,
Áo
đầy sương hoa lắng tiếng oanh trong cung.
Thơ Tống: - Một viện có hoa ngày xuân dài,
Tám
cõi không việc tờ chiếu ít.
(6)
- - Hoa đèn mờ dần,
người mới thiu thiu ngũ,
Lư vàng hình con vịt không khói mà vẫn có
hương.
(7) Thơ Tống: - Người tản hết, cây đu thảnh thơi treo
bóng trăng,
Hạt
móc rơi, con bướm ngủ lạnh trong lòng hoa.
(8) Thơ Nguyên: - Kẻ cung nga không biết
là quan trung thơ lệnh,
Hỏi
kẻ ấy là người trẻ đẹp con nhà ai.
(9) - Trong tay áo lồng được cây bút triều thiên
Ngày ngày đi về nhà vẽ mày cho vợ.
(10) Thơ Thanh: - Ngoài rèm mây dày đặc,
trời đen như mực,
Dưới đèn cửu hoa không hay khí lạnh lùng.
(11) - : - Đâu hay lại nhớ đến giấc
mộng xuân khi sáng,
Mùi hương đậm đà đè lên râu lúc hầu yến xong
trở về.
(12) - : - Oanh bướm nơi lâu đài khiến
mùa xuân rộn sớm,
Sông núi lừng ca múa xui bóng trăng lặng
chậm.
(13)
- : - Nguyền được lụa hồng ngàn vạn tấm
Đầy
trời chật đất thêu chim uyên ương.