15. NÓI VỀ HOA MAI
Nha Trang, Trung tuần tháng Hai năm Đinh
Tỵ (1977)
Thanh Xuyên,
Hai bài CÁCH LIÊM MAI và ỨC MAI trích
gởi cho Thanh Quang vừa rồi, là hai giọt mật ong do nhiều thứ mật hoa chế biến
trong tâm hồn tác giả. Nghĩa là tác giả đã mượn chữ trong các bài thơ cổ liên
quan đến MAI mà kết thành bức tâm sự riêng của mình(1)
Nhưng chữ XUÂN TÍN, THẦN TIÊN là những
chữ thường dùng để ám chỉ hoa mai.
Chữ TƯƠNG TƯ mượn trong bài Hữu Sở Tư
của Lư Đồng đời Đường:
Tương
tư nhất dạ mai hoà phát
Hốt
đáo song tiền nghi thị quân
Nghĩa là:
Một
đêm thương nhớ hoa mai nở
Sân
chợt nhìn ra tưởng thấy mình.
Câu: “Nhất mộ tương tư vân thụ diếu”
chẳng những mượn chữ trong thơ Lữ Đồng, mà còn mượn chữ trong thơ Đỗ Phủ nhớ Lý
Bạch:
Vị
bắc xuân thiên thọ
Giang
Đông nhật mộ vân
Nghĩa là:
Cây
xuân trời Vị Bắc
Ngày
tối mây Giang Đông
Thơ Lữ Đồng diễn ý MAI, thơ Đỗ Phủ diễn
ý XA CÁCH, và cả hai diễn ý NHỚ THƯƠNG. Chữ NHẬT MỘ đưa dư ba xuống câu thứ tư:
"Nhất hoằng thanh thuỷ nguyệt quyên quyên”.
Câu này mới đọc qua tưởng không có xuất
xứ nhưng xét kỹ thì là thoát thai từ câu thơ Lâm Bồ đời Tống:
Sở
ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển
Ám
hương phù đỗng nguyệt hoàng hôn
Nghĩa là:
Bóng
thưa toả ngửa nghiêng trên dòng nước trong cạn,
Hương
nhẹ bay lững lờ dưới bóng trăng hoàng hôn.
Dùng chữ NHẬT MỘ trên câu thứ ba để
chiếu xuống chữ NGUYỆT nơi câu thứ tư bài CÁCH LIÊM MAI, tác giả đã hớp được
cái thần của chữ NGUYỆT HOÀNG HÔN trong thơ Tống. Nhưng trong thơ Tống, bóng
hoa mai che mặt nước nên bóng trăng cùng hương nhẹ lơ lửng trên không trung.
Còn trong thơ Nguyên, mai bị rèm ngăn cách, nên trên mặt nước trong bóng trăng
sáng làu làu.
Bóng trăng sáng làu làu trên mặt nước,
vừa gợi cảnh rực rỡ, vừa gây khí lạnh lùng, khiến niềm tương tư càng thêm thấm
càng thêm đậm.
Bài ỨC MAI vừa dùng chữ trong thơ cổ vừa
dùng điển tích xưa.
GIANG NAM là chữ trong bài thơ Đường:
Chiết
mai phùng dịch sứ
Ký
ngữ lũng đầu nhân
Giang
Nam vô sở hữu
Diêu
tặng nhất chi xuân
(Lục
Khải)
Nghĩa là:
Bẻ
mai gặp phu trạm
Nhắn
cùng bạn lũng đầu
Giang
Nam không của cải
Gởi
cành xuân tặng nhau.
Còn THANH ĐIỂU trong câu thứ ba, không
phải dùng điển Tây Vương Mẫu, mà là điển Triệu Sư Hùng.
Triệu Sư Hùng đời Hán, đi ngang qua núi
La Phù thì trời sắp tối, ghé vào nhà trạm bên đường nghỉ qua đêm. Một giai
nhân, y trang toàn trắng, ra đón tiếp. Đêm xuống dần dần, tuyết cũng dần dần
theo đêm xuống. Trong nhà trạm, một mùi hương thanh thanh từ nơi giai nhân toả
ra, mỗi lúc mỗi lan rộng khắp cả đây đó. Và đêm cũng mỗi lúc mỗi lạnh thêm.
Giai nhân bèn Sử Hùng sang quán rượu bên cạnh. Một thị nữ áo xanh bưng rượu ra
đãi khách. Dâng cho Sử Hùng 1 chén, dâng cho giai nhân một chén, vừa dâng rượu
vừa múa vừa ca. Sử Hùng cao hứng uống say lúc nào không hay. Say quá gục lên
bàn mà ngủ. Đến khi thức giấc, thì tuyết đã ngừng rơi. Nhìn khắp bốn bên, quán
không thấy, trạm không thấy, giai nhân cũng không thấy, mà chỉ thấy dưới bóng
trăng vằng vặc một mình nằm tựa gốc mai già hoa thạnh, trên cành một con chim
xanh đậu hót líu lo…
Nhưng ở đây “thanh điểu bất lai tiên
mộng díu”, cho nên đành “nguyệt minh không tự ỷ lan can”. Niềm nhớ nhung không
nói ra lời mà mênh mông cùng quạnh hiu, mà lạnh lùng trong sáng lạn. (1)
Thơ vịnh mai, thơ về mai, triều đại nào
cũng nhiều, cũng nhiều bài hay. Nhưng nổi tiếng xưa nay là thơ của Lâm Bồ đời
Tống.
LÂM BỒ, hiệu Hoà Thịnh, cất nhà ở tại Cô
Sơn cạnh Tây Hồ, trồng mai nuôi hạt. Sống độc thân, lấy mai làm vợ, lấy hạt làm
con. Một hôm vào vườn mai Tây Hồ thưởng hoa, bị mùi hương quyến rũ đi lạc
đường, phải quanh quẩn suốt đêm. Thơ của Hoà Thịnh được khen là Trừng thiện cao
viễn, tức là trong trẻo, sung túc, cao xa.
Bài thơ VỊNH MAI được truyền tụng là bài
có 2 câu thượng dẫn.
Toàn thiện:
Chúng
phương điêu lạc độc huyên nghiên
Chiếm
đoạn phong tình hướng tiểu viên
Sơ
ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển
Ám
hương phù động nguyệt hoàng hôn
Sương
cầm dục hạ tiên du nhãn
Phấn
điệp như tri hiệp đoạn hồn
Hạnh
hữu vi ngâm thả tương ác
Bất
tu đàn bảng cộng kim tôn
Bài thơ, ý giàu tứ mới, văn chương lại
cổ kính. Không tài nào dịch ra thơ nổi. Nên đành giải nghĩa đen:
- Tất cả hoa thơm đều héo rụng, một mình riêng
tốt đẹp,
Chiếm trọn phong tình mà hướng về khoảnh
vườn nhỏ.
Bóng thưa toả nghiêng ngửa trên dòng
nước trong cạn,
Hương nhẹ bay lững lờ dưới ánh trăng
hoàng hôn.
Chim sương cầm muốn bay xuống đậu, nhưng
bị choáng mắt,
Giống bướm dường biết điều nên chung
đoạn hồn với nhau.
Mây có lời ngâm vi diệu khá gần gũi
nương tựa nhau,
Chẳng cần có đàn trỗi khúc rượu rót chén
vàng.
Đó là nghĩa trong chữ. Còn ý ngoài lời không sao nói hết. Thanh Xuyên và các em nên tự tìm tự gẫm để hưởng cho được cái vị trong vị ngoài vị của bài thơ nổi tiếng tự nghìn xưa.
Âu Dương Tu cực thưởng câu:
Sơ
ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển
Ám
hương phù động nguyệt hoàng hôn.
Nhưng Huỳnh Đình Kiên lại cho là chưa
bằng câu: (2)
Tuyết
hậu viên lâm tài bán thọ
Thuỷ
biên ly lạc hốt hoành chi
Trong một bài khác cũng Vịnh Mai của Hoà
Thịnh.
Bài này tôi không nhớ đủ thiên. Và câu
trên có nghĩa là:
- Nơi vườn nơi rừng, sau khi tuyết tan
thì mới thấy nữa gốc,
Chợt nơi rào nơi dậu gần bên mé nước,
liền có nhánh nằm ngang.
Rằng hay thì thật là hay, nhưng không
làm cho tôi ớn lạnh như khi đọc những bài thơ Thanh mà Tuỳ Viên trích dẫn trong
tập Thi Thoại:
I
Chi đầu hà xứ nhận khinh ngô
Sương diệc tinh thần tuyết diệt
ôn
Nhất cảnh hiểu phong tầm cựu mộng
Bán lâm hàn nguyệt thất cô thôn.
Ngâm tình dục lũ băng vi cú
Ly hận nan chiêu ngọc tác hồn
Ký ngữ khê kiều kiều thượng khách
Mạc tùng hương lý ngộ sài môn
II
Điểm ngạch thuỷ giao nhập Hán cung
Đống vân hợp xứ
lộ nan thông
Lung lung chiếu
khứ nguyệt nghi lạc
Biện biện kình
lai tuyết hựu không
Vô mộng bất tuỳ
lưu thuỷ khứ
Hữu hương chỉ
tại thử sơn trung
Tùng gian trúc
ngoại thuỳ tri kỷ
Địa lão thiên
hoang ngọc nhất tùng.
Đó là thơ của Kỳ
Lệ Xuyên, một vị Phương bá triều Càn Long. Văn chương trang nhã, tình ý cao viễn
u nhàn. Tôi được đọc từ năm Quí Vị (1943) và thỉnh thoảng cứ ngâm đi ngâm lại
mãi mà không chán. Trên 30 năm nay, tôi cố ý nhào nặn ngọn bút để dịch sang
quốc âm, nhưng mãi đến giờ phút nầy vẫn chưa thấy thần hoa mỉm cười! Âu cũng
đành dịch nghĩa đen như những bài của Lâm Bồ:
I
Trên đầu cành
nơi nào có thể nhận được chút ngấn vết nhè nhẹ,
Sương rơi vào
cũng trở thành vật có tinh thần, tuyết dính vào cũng trở thành ấm áp.
Một đường gió
sớm bay tìm giấc mộng cũ,
Nửa rừng trăng
lạnh che khuất thôn mồ côi.
Tình ngâm vịnh
muốn chạm giá làm câu,
Hận biệt ly khó
vời ngọc tới để làm hồn. (3)
Gởi nhắn cùng
khách trên cầu Khê Kiều
Chớ theo vào chỗ
hương thơm mà lầm phải cửa củi tạp.
II
Ai khiến vào
cung nhà Hán để điểm trán (cho công chúa)?
Nơi mây lạnh tụ hợp, đường khó thông.
Nhìn theo ánh
sáng mờ mờ soi, ngờ rằng trăng rụng,
Thấy cánh cánh
dùa tới, nhìn ra tuyết có đó cũng như không.
Không mộng nào
chẳng theo nước trôi đi,
Có hương thì chỉ
trong núi này mới có.
Trong khoảnh
tùng mọc ngoài nơi trúc mọc, ai là tri kỷ?
Trời già đất
hoang, chỉ có một cây ngọc.
Dịch nghĩa như
thế thì nghe như nói ngọng.
Biết vậy nhưng
tôi không dịch thành một bài tản văn, lời xuôi ý liền, vì nghĩ rằng bỏ một viên
đường phèn vào nước cho tan để uống, thì không ý vị bằng đập ra cho các em lấy
từng miếng nhỏ bỏ vào miệng chíp chắp lấy vị ngọt ngon.
Qua nghĩa đen
ngọng nghịu, các em tìm lấy nghĩa bóng ẩn tàng. Rồi dùng nghĩa bóng nghĩa đen
hoà cùng âm điệu của nguyên tác, các em sẽ nhận thấy, không nhiều thì ít, chân
giá trị của bài thơ.
Thơ của Kỳ Lệ
Xuyên cũng như thơ của Lâm Hoà Thịnh, khác hẳn hai bài thơ của đời Nguyên, tự
xuất thân ý chớ không hề chịu chút đỉnh ảnh hưởng của tiền nhân. Muốn đem cái
hay cái đẹp trong thơ ra trình bày nơi mặt giấy, người cầm bút ít tài như tôi,
thấy lúng túng gần như muốn đem dịch ra thơ quốc âm.
Mong Thanh Xuyên
và các em tự lực cánh sinh vậy.
__________________________________________________
(1)
Xem
toàn thiên ở bài số 13
(2)
Âu
Dương Tu và Huỳnh Đinh Kiên là 2 danh gia đời Tống.
(3)
Muốn
chạm tình ngâm vịnh nên lấy băng làm câu,
Khó chiêu hận biệt ly nên lấy ngọc làm hồn.
16. THƠ KHỔ NGÂM
Nha Trang, Trung tuần tháng Hai Đinh Tỵ
(1977)
Thanh Xuyên,
Làm thơ, có người tuỳ hứng, có người
dụng công.
Làm thơ dụng công gọi là Khổ ngâm:
Ngâm
thành ngũ cá tự
Dụng
tận bán sanh tâm
Nghĩa là:
Ra
công gióng điệu chuốt lời
Câu
thơ năm chữ nửa đời ruột gan.
Nhiều khi khổ vì một chữ:
Vị
cầu nhất tự ổn
Nại
đắc bán tiêu hàn
Nghĩa là:
Bởi
câu được một chữ êm
Tấm
thân chịu đựng nửa đêm lạnh lùng.
Có người lầm tưởng rằng chỉ có những thi
nhân tầm thường, những thi công nặng về hình thức, mới làm thơ khổ sở như thế.
Cũng đúng, nhưng không phải hoàn toàn đúng. Bởi từ xưa đến nay, có ai không
phục tài Đỗ Phủ. Thế mà Đỗ Phủ làm thơ khắc khổ đến nỗi Lý Bạch phải trêu:
Phạn
loả sơn đầu phùng Đỗ Phủ
Đầu
đái lạp tử nhật trác ngọ
Tá
vấn luật bài thái sấu sinh
Chỉ
vị tòng tài tác thi khổ
Nghĩa là:
Đầu
non gặp Đỗ đương ăn cơm
Nón
lá che đầu trời đúng ngọ
Hỏi
sao nhân thế trông gầy gò
Chỉ
bởi làm thơ quá khắc khổ.
Đâu phải chỉ mình Đỗ Phủ.
Mạnh Hạo Nhiên làm xong một bài thơ thì
lông mày rụng hết.
Vương Duy có lần vì chú tâm trong việc cấu tứ mà bước lầm vào vò dấm nơi sân.
Giả Đảo ngót ba năm mới làm được hai câu
đắc ý, và mãi lo cân nhắc hai chữ THÔI XAO mà đâm vào xe Hàn Dũ. (1)
Đó là danh gia đời Đường.
Đời nhà Tống, nổi tiếng khổ ngâm có Trần
Sư Đạo, hiệu Hậu Sơn. Mỗi lần Hậu Sơn cao hứng thì lên ngâm tháp. Người nhà
liền đuổi chó mèo gà vịt đi nơi khác, đem trẻ con gởi nhà khác, để cho ông
chuyên ý mà nghĩ thơ.
Lý Phàn Long đời Minh, tánh tình lại
càng quái dị. Ông xây ở giữa hồ một lầu gọi là lầu Bạch Vân, gồm ba tầng. Tầng
cao nhất là nơi ông ngâm vịnh. Tầng giữa để người ái thiếp ở. Tầng dưới để tiếp
khách. Hễ khách lạ tới thăm thì ông bắt làm một bài thơ để thử tài. Nếu như thơ
hợp cách, thì ông chèo thuyền ra đón. Bằng không thì ông bảo thẳng: - Về đọc
sách nữa đi, đừng bắt ta phí công tiếp đón.
Suốt ngày đêm ông đọc cổ thư. Trên tường dán đầy kiệt tác của cổ nhân. Lúc nào ông muốn làm thơ thì tiệt thang lầu không cho một ai đến. Thi nhân đương thời tôn ông làm Đạo Tàn Minh Chủ.
Các nhà khổ ngâm trên đều có nhiều giai
tác truyền thế. Duy Lý Phàn Long được nhiều người đương thời hâm mộ, nhưng
người các đời sau lại không thích thơ ông. Do đó tác phẩm lần lần bị mai một
hết.
Nhiều người dựa vào Lý Phàn Long mà công
kích lối thơ khổ cầu. Ho bảo rằng nhân xảo làm mất hết tự nhiên, mà thơ tự
nhiên mới đáng quí.
Nói như vậy thì thơ Đỗ Phủ không đáng
quí sao? Và thơ Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, có câu nào là câu không tự nhiên, có
câu nào mang ngấn vết mài dũa?
Còn trần Hậu Sơn, thơ vịnh ngày MỒNG
CHÍN THÁNG CHÍN tức Cửu Nhật, có câu:
Nhân
sợ tự sanh kim nhật ý
Hàn
ba chỉ tác khứ niên hương
Nghĩa là:
Việc
đời tự sanh ra ý mới của ngày nay
Hoa cúc chỉ nở lại mùi thơm của năm ngoái.
Câu thơ ngó thì
dễ nhưng thật là khó, khó làm - vì trước kia và sau này có ai làm được? - mà
cũng hết sức khó dịch thành thơ, mặc dù ý nghĩa rõ ràng và chữ Việt tương đương
với chữ Hán không đến nỗi thiếu. “Ai đã biết được cái khó trong cái dễ, mới khá
cùng nói chuyện thơ ”, lời của tác giả Tuỳ Viên Thi Thoại nghe dường ngạo mạn,
nhưng ai đã từng cay đắng với thơ đều công nhận là chí tình chí lý.
Thanh Xuyên và
các em có biết kẻ làm thơ dùng nhiều công sức với mục đích gì chăng? Có phải để
khoe tài học rộng nghĩ sâu của mình chăng? Có phải để đem tài khéo chạm may
khắc ráng trang sức cho đời sống của mình chăng?
Những nhà thơ
chân chính không bao giờ nhắm những mục đích tầm thường như thế cả. Đối với họ
“văn chương là tấc lòng gởi vào thiên cổ”. Mất ngủ vì chữ, nát ruột vì một câu,
là để nói cho được, nói cho hết, nói cho trọn vẹn mà gọn gàng, nói cho rõ ràng
mà sâu sắc, để nói mà không nói, không nói mà nói… tất cả những gì lòng muốn
nói ra cùng bạn đồng thanh đồng khí đương sống hay chưa sanh, trong tấc gang
hay ngoài muôn dặm, nói ra cho vơi bớt nỗi u hoài.
Tử công phu với
thơ thì khổ cũng thật khổ mà sướng cũng thật sướng. Khổ trong lúc làm mà sướng
khi làm đã được:
Khổ ngâm tăng nhập định
Đắc cú tướng thành công
Ngồi thiền cho
đến lúc tâm vào được định xứ, nhà sư phải dùng không biết bao nhiêu công sức,
chớ không phải ngồi nhắm mắt và tập trung tư tưởng trong một thời gian là
thành. Công phu của thiền sư và của thi nhân, ai có qua cầu mới biết được.
Còn nỗi vui
sướng của ông tướng lập được chiến công, dù không là người trong cuộc, cũng có
thể đoán biết được mức lượng đến đâu.
Có khổ mà có
sướng như thế, người thơ mới sống chết với thơ.
Cũng như tôi lúc
nhỏ, khi học hai câu thơ cổ thượng dẫn, các em không khỏi thắc mắc:
-
Khi
đắc cú, lòng các nhà thơ khổ ngâm vui sướng thế ấy, không biết lòng các nhà thơ
mở miệng thành thơ hươ bút thành thơ, có như thế ấy chăng?
Xin đáp:
-
Các
em đã từng xem truyện Tam Quốc: Quan Vũ vừa ra trận thì chém ngay được Huê
Hùng. Châu xương phải đánh cùng Bàng Đức ròng rã mấy ngày đêm ở dưới nước, mới
bắt được địch. Đứng ngoài cuộc ai dám chắc lòng vui sướng của Quan Vũ thua Châu
Xương. Nhưng ai cũng có thể quả quyết rằng cả hai đều vui mừng sung sướng lúc
thành công. Song cường độ bên nào cao hay thấp hơn bên nào thì ’ai uống nước
nấy biết độ nóng lạnh’.
Tôi xin nói thêm
điều nầy nữa:
-
Theo
kinh nghiệm bản thân, không có câu thơ nào không dụng công mà đắc ý, mà cũng
không thể làm được câu thơ đắc ý nếu không dụng công. Nhưng sử dụng công của
nhà thơ mỗi người mỗi khác tuỳ thiên bẩm, tuỳ học thức, tuỳ tài năng. Có người
dụng công trong lúc làm thơ, có người dụng công trong lúc uẩn nhưỡng, huân tập,
có người dụng công trong việc tích luỹ hàm dưỡng và dụng công luôn cả trong
việc thôi xao.
Những nhà thơ mở
miệng ra thơ, hươ bút nên thơ, đâu phải thơ ở sẵn nơi miệng nơi bút mà chính đã
được tích luỹ đã được hàm dưỡng, đã được uẩn nhưỡng đã được huân tập lâu ngày
lâu năm, có khi lâu đời, ở trong tâm, trong trí, trong tiềm thức. Dụng công mà
lắm khi đương sự không biết rằng mình dụng công, vì đã từng dụng công đến mức
độ trở thành tập quán, trở thành tánh tự nhiên.
Song đâu phải
lúc nào cũng mở miệng ra thơ hươ bút nên thơ. Đỗ Phủ nói: “Lý Bạch nhất đấu thi
bách thiên” là đề cao tài lanh lẹ hơn người của Trích tiên. Chớ nếu ngày nào,
lúc nào cũng một chén rượu vào trăm bài thơ ra như thế thì suốt đời thơ để đâu
cho hết?
Mà đối với thơ,
làm mau hay chậm, làm nhiều hay ít, không quan trọng. Điều quan trọng là thơ
làm có hay hay không đó thôi. Lý Thái Bạch “Nhất đấu thi bách thiên”, Đỗ Phủ
”Thái sấu sinh vị tác tinh khổ ”, lúc sống tề danh, lúc chết lưu danh, kẻ được
tôn xưng là Thi Tiên, người được tôn xưng là Thi Thánh, như thế là không uổng
phí đời làm thơ.
_____________________________________________________________________
(1) Những giai thoại này đã chép trong
tập 'Trong Vườn Hoa Thơ’ và ‘Những Bức Thư Thơ’ tập I, nên ở đây chỉ nói qua.