17. THƠ VỊNH MAI CỦA VIỆT NAM
Nha Trang, Trung tuần tháng Hai năm Đinh
Tỵ (1977)
Hiểu Vân,
Không phải là ‘Phật nhà không thiêng’ như Hiểu Vân
tưởng đâu.
Đối với tôi thơ hay không có quốc giới, không có
triều đại. Khi chúng nằm trong người tôi, chúng là của tôi, chúng là hiện tại.
Nhưng khi viết cho các em xem thì phải ghi là thơ Trung Quốc, thơ Việt Nam, thơ
đời nầy thơ đời nọ, để cho dễ nói chuyện đó thôi.
Hiểu Vân thông cảm rồi chứ?
Trong bức thư thơ gởi cho Thành Xuyên (1) hôm trước,
không có thơ mai của Việt Nam là vì:
Thơ chữ Hán của các danh sỹ tiền bối mà tôi thuộc,
tôi đã giới thiệu trong tập “TRONG VƯỜN HOA THƠ ” và đã chép trong bức thư gởi
cho Hồng Liên hôm Vũ Thuỷ (2), bài của Diệu Liên công chúa. Sợ chép đi chép lại
mãi sanh nhàm.
-
Thơ
Quốc âm tôi chỉ thuộc 3 bài của Triều Lê. Những bài nầy không được xuấc sắc, để
đứng cạnh thơ đời Tống đời Thanh, sẽ không làm vinh dự cho tác giả.
Nay thể theo lời yêu cầu của Hiển Vân, tôi xin chép
lại 3 bài Quốc âm ấy ra đây.
MAI THỤ
Giữa mùa đông,
lỗi thức xuân
Nam chi nở cực
thanh tân
Trên cây khác
ngỡ hồn cô dịch
Đáy nước ngờ là
mặt Thái Chân
Càng thuể già
càng cốt cách
Một phen giá một
linh thần
Người cười rằng
kém tài lương đống
Thửa việc điều
canh bội mấy phần.
LÃO MAI
Hoa nẩy cây nên thuở
đốc sương
Chẳng tàn chẳng cỗi hãy phong quang
Chẳng tàn chẳng cỗi hãy phong quang
Cách song khác
ngỡ hồn Cô Dịch
Quáng bóng in
nên mặt Thọ Dương
Đêm có mây nào
quyến nguyệt
Ngày tuy gió
chẳng bay hương
Nhờ ơn vũ lộ đà
no hết
Đông đổi dầu
đông hãy một dường.
Đó là bài thơ trong QUỐC ÂM THI TẬP của Ức Trai
NGUYỄN TRÃI.
Và đây bài thơ thứ 3 trích trong HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM
THI TẬP:
MAI THỤ
Trộị cành mai
chiếm một chồi
Tin xuân mây mẩy
điểm cây mai
Tinh thần sáng
thuở trăng tạnh
Cốt cách đông
khi gió thôi
Tuyết cứng
trượng phu tùng ấy bạn
Nết trong quân
tử trúc là đôi
Nhà truyền thanh
bạch chăng từng khối
Vậy xứng danh thơm đệ
nhất khôi.
Cả 3 bài đều thuộc thể thơ LỤC NGÔN, một thể thơ rất
thạnh triều Hâu Lệ (3). Giọng thơ chưa nhuyễn. Chữ dùng chưa được nhã, và có
nhiều chữ cổ, hiện nay không còn phổ biến. Đọc lên nghe khô khan không thú vị.
Đó là vì:
-
Về
ngoại diện thì thiếu ảnh tượng, kém âm nhạc.
-
Về
nội dung thì ý thắng tâm, tức là thiếu tình, chỉ có chí.
Thơ như thế, cổ nhân gọi là ‘hữu cán vô ba, hữu
thanh vô vận’. Chỉ có giá trị về mặt khảo cổ, chớ đối với bọn đi tìm cái đẹp
như chúng mình thì nên dừng lại chốc lát ở bên ngoài, không cần phải đi sâu vào
bên trong làm chi cho khổ.
Nhưng trong hai bài trước có mấy điển cố Hiển Vân và
các em yêu thơ cổ cũng cần nên biết:
CÔ DỊCH: Núi Cô Dịch ở tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.
Trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử, thiên Tiêu Diêu Dun
nói rằng thần núi Cô Dịch, da như dăng tuyết, dáng yểu điệu như gái chưa chồng
(xử nữ).
THÁI CHÂN: Hiệu của Dương Quí Phi
Thần Nữ núi Cô Dịch và Dương Thái Chân không có mối
liên quan đến hoa mai. Đây Ưc Trai mượn Thần Nữ để ví với cốt cách tao nhã, với
tinh thần thanh khiết của cây mai, mượn Thái Chân để ví với sắc đẹp của hoa
mai.
Nhưng hoa mai vốn gầy, còn Thái Chân vốn phì nộn như
hoa hải đường. Như thế đem Thái Chân ví với hoa mai có thích đáng chăng? Sẽ
không ổn nếu tác giả không để hai chữ ‘đấy nước’ ở đầu câu. ‘Đấy nước’ vừa gợi
ý mai, do những câu thơ cổ ‘Sợ ảnh hoành tà
thuỷ thanh thiển’ và ‘Thuỷ biên Ly
Lạc hốt hoành chi ’ tác động, vừa làm cho sắc đẹp của Dương Quí Phi, qua
chiều sâu của nước và sự di chuyển của sóng, trở thành mông lung phiêu diêu,
làm cho một đoá hoa cánh dày và lớn biến thành trăm nghìn đoá hoa nhỏ óng ánh
chập chờn…
Ý thơ rất đẹp, tiếc rằng lời thơ không được tao, nên
phải nhờ nhiều vào sức tưởng tượng của độc giả mới tạo nên một khóm mai nở bên
dòng nước, vừa cao khiết vừa thanh tân.
Câu 3, câu 4 dùng điển một cách phóng khoáng.
Điển ĐIỀU CANH dùng ở câu kết mới thật sát với Mai.
ĐIỀU CANH là gia vị cho canh. Người ta thường dùng
quả mai để nêm canh. Cho ngon nước.
Vua Cao Tông nhà Ân nói cùng quan Tể Tướng là Phó
Duyệt:
-
Thầy
nên chỉ bảo cho ta gắng chí. Như nấu rượu ngon, thầy là chất hèm. Như gia vị
cho canh, thầy là muối là mai. Thầy cùng bạn đồng liêu sửa chữa cho ta, đừng bỏ
ta. Ta gắng thi hành những điều thầy huấn thị. (4)
Do đó người đời sau thường dùng chữ ĐIỀU CANH để chỉ
công việc làm của Tể Tướng.
Cũng như điển Điều Canh, điển THỌ DƯƠNG dừng ở câu
thứ 4 bài thứ Nhì của Ức Trai, là một điển về MAI.
THỌ DƯƠNG là Thọ Dương công chúa, con gái vua Vũ Đế
nhà Tống thời Nam Bắc Triều. Ngày mồng bảy tháng Giêng, công chúa nằm nơi thềm
điện Hàm Chương, thình lình 1 đoá hoa mai rơi dính nơi trán ở giữa hai chân
mày. Nhan sắc công chúa trở nên diễm lệ hơn trước. Nhân đó giới phụ nữ thường
vẽ hoa mai trên trán để trang sức, gọi là Mai hoa trang.
‘Mặt Thái Chân’ và ‘Mặt Thọ Dương’ đều dùng để nói
vẻ đẹp của hoa mai. Nhưng câu trước mượn nhan sắc của Thái Chân, còn câu sau
lại mượn hoa mai nơi trán của Thọ Dương. Ý thì in nhau nhưng hình ảnh ở mỗi câu
mỗi khác. Một bên thì tả vẻ đẹp ở dưới nước. Một bên thì tả vẻ đẹp ở trên
không. Chữ ‘Quáng bóng’ ở câu sau, khéo dùng chẳng kém chữ ‘Đáy nước’ ở câu
trước: Hoa mai trên trán của Công-chúa chỉ có một đoá, nhờ mắt bị quáng mà hoa
mai sanh điệp điệp trùng trùng. Chữ ‘Quáng bóng’ còn làm cho người đọc liên
tưởng đến câu thơ của Lâm Hoà Thịnh: 'Sương
cầm dục hạ tiên du lãng’, mà nhận thấy rằng hoa mai trong thơ là hoa Bạch
Mai, và sắc trắng của hoa lộng lẫy đến làm hoa mắt /chim/cả lẫn người.
Bài thơ Hồng Đức mới đọc qua dường như không dụng điển.
Nhưng xét kỹ vẫn có, có nơi lập luận:
Tiết ứng trượng phu tùng ấy bạn
Nết trong quân tử trúc là đôi.
Người sưa sánh bậc trượng phu là cây
tùng, bậc quân tử là cây trúc, và tùng cùng trúc để chung với mai gọi là 'Tuế hàn tam hữu’, tức là 3 người bạn
chịu nổi khí lạnh của mùa đông, ví với những người có khí tiết gặp cơn hoạn
nạn, gặp thời loạn ly vẫn giữ trọn được thân danh, đạo nghĩa.
Đem tùng trúc vào thơ, tác giả nêu cao thanh giá của
Mai, vừa làm cho Mai có bạn ở bên cạnh.
Câu kết: 'Vậy xứng danh thơm đệ nhất khôi'.
Phải chăng tác giả đã thoát ý câu thơ Tống:
Tuyết trung vị luận điều canh sự
Tiên hướng bách bạ đầu thượng khai
Nghĩa là:
Việc ngon canh chớ bàn trong tuyết
Đầu trăm hoa điểm xuyết cành cao.
Câu nầy là thơ Vịnh Mai của Vương Hội. Thơ làm từ lúc
Vương còn bé. Một danh sĩ lão thành bảo:
-
Thằng bé này đã
nắm sẵn chức trạng nguyên và Tể tướng trong tay. Sau quả đúng như thế.
Tuy không biết tác giả là ai, song theo khẩu khí thì
đoán biết là người có danh phận cao, sự nghiệp lớn thời Hồng Đức.
MAI là một đề tài rất thông dụng.
Thi nhân dùng để tượng trưng cho niềm tiết tháo, cho
lòng tinh khiết của mình. Thói đa tình cũng thường biểu lộ trong thơ.
Và nhân đọc thơ MAI, chắc các em cũng như tôi không
khỏi nghĩ lẩn quẩn:
-
Mai kết bạn cùng,
trúc, lại sánh đôi cùng liễu. Tùng, trúc luôn làm đại biểu cho giới nam nhi. Liễu
luôn luôn tượng trưng cho giới phụ nữ. Còn mai, khi thì đàn ông, khi thì đàn
bà. Như thế có phải Mai là đức Quan Thế Âm Bồ Tát của loài thực vật có sắc, có
hương?
-
Phi thị, thị phi,
cần chi phải biện bạch. Xem thơ mà tìm được cái thú do nhận thức, do tưởng
tượng, do suy tư…, đó là đạt được mục đích. Bởi đối với chúng ta, xem thơ, nói
chuyện thơ, không có mục đích nào khác hơn là hưởng thú, hưởng thú để di dưỡng
tính tình, để tăng tiến trên đường học vấn.
Nhưng không nên lý luận suông mà sanh chán.
Bấy nay đã đem Mai của cố nhân ra làm
quà cho các em, tuy chưa được bao năm, song các em cũng đã biết qua mùi vị. Bây
giờ, tôi xin gởi đến các em một ít ‘cây nhà lá vườn’.
Xuân Giáp Dần (1974), nhân khóm mai trong vườn, trong
tháng Giêng, tháng hai nở lác đác, sang tháng ba nở vun cành, tôi cao hứng ngâm
được một luật:
Giếng ngọt Giang Nam một khóm
già
Xuân ngoài sáu chục nhánh
triều hoa
Tình xuân chừng đợi duyên công
chúa
Hương muộn càng say giấc tố
nga
Mộng ngắm sương khuya hồn động
ngọc
Vần gieo gió sớm bút trau ngà
Hỡi người thức trắng đêm
thương nhớ
Tiếng địch thành cao vọng bến
xa.
Tứ tuy không thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của cổ nhân,
nhưng tình cảnh chân thiết, nên chép ra lòng không mấy ngại ngùng.
Gần đây, nhân thấy người hàng xóm vất một nhành mai
hết thời rơi xó nhà bếp, tôi cảm giác được bốn vần:
Trước tết Mai
là hoa
Sau tết Mai
là củi
Trước bao
nhiêu nâng niu
Sau bấy nhiêu
hất hủi
Nâng niu Mai
chẳng mừng
Hất hủi mai
không tủi
Nghìn trước
gẫm nghìn sau
Khe trong
lòng bóng núi.
Nhìn qua thì an nhiên tự tại, nhưng chíp chắp vẫn thấy
chua chát ngậm làm ngon, làm ngon để thấy lòng an nhiên tự tại.
Tôi nhận thấy người cũng như mình, xưa cũng như nay,
nói đến MAI chỉ vì mình mà nói, chế chưa từng thấy thi nhân vịnh Mai vì Mai.
Đối với Mai như thế cũng phụ phàng quá! Song Viên Mai lại nói:
- Thơ vịnh vật mà
không có ký thác thì chẳng khác lời đùa cợt của trẻ em…, không phải Thơ vậy.
Vậy một khi Mai đã ôm ấp lòng thi nhân vào lòng mình
để cùng tan biến thành thơ, thì thơ kia là Mai hay Thi nhân đâu còn là hai nữa,
mà người đọc chúng mình còn phân biệt Ngã, Nhân.
Thơ vịnh Mai là thế. Thơ vịnh các vật khác cũng thế.
Hiểu Vân và các em yêu thơ có biểu đồng?
__________________________________________
(1) Bài số 15.
(2) Bài số 08.
Trong
Vườn Hoa là một tập thi thoại chưa xuất bản.
(3) Về thể Lục Ngôn, tôi đã nói kỹ trong tập thi
thoại HƯƠNG VƯỜN CŨ.
(4) Nguyên văn: Nhỉ
duy huấn vu trẫm chí. Nhược tác tửu lễ, nhĩ duy cúc nghiệt. Nhược tác hoa canh,
nhĩ duy diêm mai. Nhĩ giao tu dư, võng dư khí. Dư duy khắc mại nãi huấn.
(Kinh thư – Thiên Duyệt Mệnh hạ)
18. BÀI THƠ HỮU SỞ TƯ
Nha Trang, trung tuần tháng hai Đinh Tỵ (1977)
Khánh Vân,
Bài HỮU SỞ TƯ của Lư Đồng là một bài Trường thiên Cổ
thể:
Đường thời ngã tý mỹ nhân gia
Mỹ nhân nhan sắc kiều
như hoa
Kim nhật mỹ nhân khí ngã
khứ
Thanh lâu châu bạc thiên
chi nha
Quyên quyên hằng nga
nguyệt
Tam ngũ nhị bát dinh hựu
khuyết
Thuý my thuyền phát sinh
biệt ly
Nhất vọng bất khiến tâm
đoạn tuyệt
Tâm đoạn tuyệt hề kỹ
thiên lý
Mộng trung tuý ngoạ Vu
Sơn vân
Giác lai lệ trích Tương
giang thuỷ
Tương giang lưỡng ngạn
hoa mộc thâm
Mỹ nhân bất khiến sầu
nhân tâm
Hàm sầu cánh tấu lục ỷ
cầm
Điệu cao huyền tuyệt vô
tri âm
Mỹ nhân hề mỹ nhân
Bất tri vi mộ vũ hề vi
triêu vân
Tương tư nhất dạ mai ba
phát
Hốt đáo song tiền nghi
thị quân
Tản Đà tiên sinh dịch:
Hôm ta say ở nhà ai
Mặt
ai xinh đẹp vẽ người như hoa
Bây giờ người đẹp bỏ ta
Lầu xanh rèm ngọc cách xa
chân trời
Cung Hằng trong trẻo gương
soi
Ba năm hai tám đầy vơi lạ gì
Tóc ve mày thuý chia lìa
Đức tươm khúc ruột chăng vì
khuất nhau
Khuất nhau cách mấy ngàn dâu
Để ai ruột đức lòng đau lúc
này
Non
Vu say giấc nằm mây
Tỉnh
ra nước mắt tuông đầy mặt Tương
Sông
Tương cây cối chen hàng
Ngóng
ai chẳng thấy sầu thương dạ người
Ngậm
sầu gảy khúc đàn chơi
Điệu
cao dây đứt không người biết nhau
Hởi
ơi người đẹp ta đâu
Mưa chiều mây sớm ai hầu biết ai
Nhớ
nhau suốt một đêm dài
Trước
sân trăng toát hoa mai lúc nào
Ngỡ
mình chẳng phải mình sao?
Ba chữ HỮU SỞ TƯ của đề bài, Tản Đà Tiên sinh dịch là 'Có
nhớ ai'. Tôi e không sát ý. Tưởng nên để nguyên đầu đề thì hơn. Ba chữ ấy có
nghĩa là ‘Nhớ có chỗ’, tức là không phải nhớ bông lông. Dịch ra quốc âm đã
không lột hết ý nghĩa mà lại nghe không sướng tai. Huống hồ HỮU SỞ TƯ nguyên là
đầu đề của bài Cổ nhạc phủ đời Hán, các thi nhân đời sau mượn để sáng tác những
khúc mới theo tâm sự hoặc cảnh ngộ của mình.
Theo sách CỰU THI LƯỢC LUẬN của Lương Xuân Phương, một
học giả Trung hoa cận đại, thì bài Hữu sở tư nguyên thuỷ đại ý nói rằng ‘nhân
nghĩ ngợi và sinh ra ghét ghen, nhân ghét ghen mà muốn dứt tình’. Còn theo tập
LÝ HẠ, quỉ tài và quỉ thi, của Tuệ sĩ, một thiền sư kiêm thi sĩ hiện đại, thì
Hữu sở tư là đề của một bài nhạc phủ đầu tiên do Hàn Vũ Đế sáng tác, gồm 17
câu, có ý dụ hàng quân Nam Việt, sau khi Triệu Đà băng hà, Tự Quân còn nhỏ, Cù
Thái hậu thông gian cùng sứ giả Trung Hoa.
Tôi chưa được đọc bài nhạc phủ ấy. Không biết bài của
Lương Xuân Phương đề cập và bài của Tuệ Sĩ giới thiệu là một hay hai, vì không
thấy trích dẫn trong hai tập biên khảo.
Trong tập biên khảo của họ Lương có trích dẫn một đôi đoạn trong các bài của các thi nhân đời sau nghĩ tác về đề Hữu Sở Tư:
Như hà hữu sở tư
Nhi vô tương kiến thì
Dục tri ưu năng lão
Vi thị kính
trung ti
(Vương Duy)
Nghĩa là:
Vì sao lòng
nặng nhớ nhung
Vì khi
trông đợi không cùng thấy nhau
Ưu phiền
dục tuổi già mau
Trong
gương tơ trắng đổi màu tóc xanh.
- Tây lai
thanh điểu đông phi khứ
Nguyện ký nhất thư tạ Ma Cô.
(Lý
Thái Bạch)
Nghĩa là:
Chim xanh bay thẳng về đông
Một phong thư gởi tạ lòng Ma Cô.
Trong tập biên khảo của Tuệ Sỹ, bài của Lý Hạ được
chép toàn thiên:
Khứ niên mạch thượng ca ly khúc
Kim nhật quân thơ viễn du Thục
Liêm hoạ hoa khai nhị nguyệt phong
Đài tiền lệ trích thiên hàng trúc
Cầm tâm dữ thiếp trường
Thử dạ đoạn hoàn tục
Tưởng quân bạch mã huyền điêu cung
Thế gian hà xứ vô xuân phong
Quân tâm vị khẳng trấn như thạch
Thiếp nhan bất cửu như hoa hồng
Dạ tàn cao bích huyền trường hà
Hà thượng vô lương không bạch ba
Tây phong vị khởi bi long thoa
Niên niên chức tố toàn song nga
Giang sang thiếu đệ vô hưu tuyệt
Lệ nhãn khang đăng tạc minh diệt
Tự tùng cô quán thân toả song
Quế hoa kỷ độ viên hoàn khuyết
Nha nha hưởng hiểu minh lâm mộc
Phong quá trì đường hưởng tòng ngọc
Bạch nhật tiêu điều mộng bất thành
Kiều nam cánh vấn tiên nhân bốc.
Tuệ Sĩ dịch theo nguyên điệu:
Năm qua đầu ngõ ca ly khúc
Ngày nay thơ chàng xa đất thục
Ngoài rèm hoa nở gió tháng hai
Trước đài lệ nhỏ nghìn khóm trúc.
Lòng đàn và ruột thiếp
Đêm nay đứt lại nối.
Tưởng chàng ngựa trắng treo đồng cung
Thế gian nơi đâu không gió xuân
Lòng chàng chưa chịu vững như đá
Sắc thiếp không lâu như hoa hồng.
Đêm tàn ngất tạnh giải sông Ngân
Sóng bạc trơ sông không cầu ngang
Khung cửi buồn mong gió Tây thổi
Năm năm dệt lụa đôi mày nhăn.
Núi sông vời vợi người heo hút
Mắt lệ trông đèn sáng rồi tắt
Từ khi quán vắng khép kín song
Hoa quế máy lần tròn lại khuyết
Rừng cây tinh sương đàn quạ giục
Gió lộng bờ ao rộn tiếng ngọc
Ngày trắng tiêu điều mộng không thành
Cầu Nam bói thử kỳ hẹn ước.
Dịch thật sát ý nghĩa, nhưng vì dịch giả là một nhà sư
chân chính nên không có vị tình lẫn vào vị thơ. Bắt chước Tản Đà Tiên sinh dịch
thơ Lư Đồng, tôi thử dịch thơ Lý Hạ theo thể lục bát:
Đường xưa ngâm khúc ly ca
Ngày nay đất thục đã xa thư chàng
Rèm hoa xuân nở muộn màng
Trước đài lục trúc muôn hàng lệ tuôn
Đêm nay lòng thiếp lòng đàn
Đức thôi lại nối ngổn ngang tơ lòng
Tưởng chành ngựa trắng đeo cung
Nơi đâu nơi chảng gió đông dịu dàng
Đá xây chưa vững lòng chàng
Hoa dung thiếp cũng dễ dàng tàn xuân
Đêm tàn quạnh quẻ sông Ngân
Mênh mông sóng bạc bờ không nhiệp cầu
Đường thoi ngọn bất thổi mau
Năm năm khung gấm những chau đôi mày
Núi sông vời vợi tháng ngày
Đèn chong mắt lệ tắt rày sáng mai
Từ phen quán vắng thoen cài
Bao lấn hoa quế rụng rồi lại lưng
Tinh sương giục giã quạ rừng
Bờ ao gió lộng vang lừng ngọc châu
Ngày buồn mọng chẳng thành đâu
Nhớ kỳ hẹn ước qua cầu hỏi tiên.
Bài của Lư Đồng là chàng nhớ thiếp. Bài của Lý Hạ là
thiếp nhớ chàng. Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Không thể nói hơn kém, chỉ
có thể nói sầu của Lư Đồng mênh mông, sầu của Lý Hạ da diết. Và Lư Đồng thương
nhớ một cách ngọt ngào, Lý Hạ nhớ thương pha lẫn bức rức.
Nói tóm lại: thi nhân mượn đầu đề HỮU SỞ TƯ để tả lòng
nhớ thương nhau vì xa cách. Thường thường thiên về niềm luyến ái. Nhưng đôi khi
cũng ra ngoài thông lệ. Như Hà Thừa diễn tả lòng thương nhớ song thân:
HỮU SỞ TƯ
Tư tích nhân
Tăng Mẫn thị tử
thiện dưỡng thân
Nghĩa là:
NHỚ CÓ CHỖ
Nhớ cố nhân
Thầy Tăng thầy Mẫn
Nuôi nấng hai thân trọn niềm
Mượn đề HỮU SỞ TƯ để Thầy Tăng thầy Mẫn ngồi. Hai thầy
ngồi để tác giả có chỗ gởi lòng đau buồn không phụng dưỡng được cha mẹ mình vì
ở xa cách. Cho nên HỮU SỞ TƯ của tác giả, trên văn chương là thầy Tăng thầy Mẫn,
nhưng trong thâm tâm là hai đấng sinh thành.
Đề tài cũ mà thi nhân mượn để sáng tác có nhiều. Ngoài
đề HỮU SỞ TƯ, còn những đề thông dụng như: Thanh bình điệu, Lương châu từ, Ô
thê khúc…, vân vân...
Mượn đề cũ để sáng tác có nhiều cách:
-
Đề đồng ý dị
-
Đề đồng sự dị
-
Đề đồng điệu dị
Nói qua cho biết thôi, chớ không nên đi sâu vào chi
tiết, vì không khéo mục đích thư thoại trở thành khảo cổ là chỗ sở đoản của
tôi.
Bài của Lư Đồng, mặc dù chưa nghiên cứu kỹ, chúng ta
cũng có thể tin rằng đó là niềm nhớ thương người tình xa cách. Còn bài của Lý
Hạ, theo Tuệ Sỹ thì 'hình như mô tả tâm trạng Trác Văn Quân chờ đợi ngày về của
Trương Như từ đất thục’. Có lẽ đúng. Song Trương Như là ai, trong khi Trác Văn
Quân không ai khác là tác giả?
Sẽ tìm Tuệ Sỹ để hỏi thăm
Bây giờ xin tạm dừng bút./.