21. CÂU ĐỐI TẾT
Nha Trang, tháng chạp năm
Kỷ Hợi 1959
Bạn THANH LANG,
Câu đối Tết:
Vọng xuân xuân khả liên: lĩnh thụ trùng già thiên lý
mục;
Bất quy quy tiện đắc: Cô châu nhất hệ cố viên tâm.
Tạm dịch:
Trông xuân đáng yêu: lớp
lớp cây giăng nghìn dặm mắt,
Không về về ắt được: khư
khư thuyền buộc mối tình quê.
Đó là một câu tập cổ.
‘Vọng xuân xuân khả liên’
lấy trong bài ‘Xuân nhật hạnh’ vọng Xuân cung của Tô Đĩnh đời nhà Đường:
Đông vọng Vọng Xuân xuân khả liên,
Cánh phùng tình nhật liễu hàm yên.
Cung trung hạ kiến Nam sơn tận,
Thành thượng bình lâm Bắc đẩu huyền.
Tế thảo thiêng thừa hồi liễn xứ,
Phi ba cố lạc võ trường tiền
Thần du đối thử hoan vô cực
Điêu lộng ca thanh tạp quản huyền.
Tạm dịch:
Xa vọng Vọng Xuân xuân
đáng yêu
Ngày xanh quyến liễu khói
lồng theo.
Trập trùng cung dưới Nam
sơn dựng,
Vòi vọi thành ngang Bắc
đẩu treo.
Nương dấu xe loan làn cỏ
mướt,
Lồng chung rượu múa cánh
hoa gieo.
Tấm lòng thần tử vui không xiết,
Chim rập lời ca hoạ tiếng
tiêu.
‘Vọng Xuân’ nghĩa là
‘trông xuân’. Trong bài thơ, ‘Vọng Xuân’ là danh từ riêng, nhưng khi ngắt đem
vào câu đối thì từ loại thay đổi và
nghĩa là 'trông xuân’.
Đoạn tiếp: ‘Lĩnh thụ trùng
già thiên lý mục’ lấy trong bài ‘Đăng Liễu Châu thành, ký Đinh Phong' chương
'Liêu tứ châu thứ sử’ của Đỗ Phủ:
Thành thượng cao lầu tiếp đại hoang,
Hải thiên sầu tứ chánh mang mang.
Kinh phong loạn chiếm phù dung thuỷ,
Mật võ tà xâm bệ lệ tường.
Lĩnh thụ trùng già thiên lý mục,
Giang lưu khúc tợ cửu hồi trường.
Cọng lai Bách Việt văn thân địa,
Do tự âm thư trệ nhất chương.
Tạm dịch:
Lầu cao vòi vọi cảnh mênh
mông,
Bể nước trời mây tứ não
nùng!
Mưa nượp nượp xâm tường bệ lệ,
Gió ào ào chiếm vũng phù
dung.
Chập chờn núi trải muôn
tầm mắt,
Cuồn cuộn sông quanh chín
khúc lòng.
Từ buổi thân nương ngoài
Bách Việt,
Nỗi niềm cách trở bức thư
phong.
Cảnh ‘Lĩnh thụ trùng già’
đứng chung những cảnh gió thổi mạnh, mưa tuôn dày, sông cuồn cuộn chảy quanh co
thăm thẳm… thì làm cho khung cảnh thêm ngợp và thêm buồn. Nhưng khi đứng riêng
một mình, và nhất là có mấy chữ ‘Vọng xuân xuân khả liên’ đi trước thì lại vẽ
ra một bức tranh bát ngát nhưng xinh tươi. Xem đó thì vị trí của một câu thơ
không phải không có ảnh hưởng đến tứ thơ vậy.
Đó là xuất xứ của vế trên
câu đối. Vế dưới cũng mượn chữ trong hai bài thơ Đường.
‘Bất qui qui tiện đắc’ lấy
trong bài “Lữ hoài” của Thôi Đỗ:
Thuỷ lưu ba tạ lưỡng vô tình,
Tống tận Đông phong quá Sở thành!
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý,
Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam canh.
Cố viên thơ động kinh niên tuyệt,
Ba phát xuân thôi mãn kính sanh.
Tự thị bất qui qui tiện đắc.
Ngũ Hồ yên cảnh hữu thuỳ tranh.
Tạm dịch:
Nước trôi hoa rụng thảy vô
tình,
Đưa ngọn Đông phong cách
Sở thành.
Giấc bướm não nề quê vạn
dặm,
Nhành quyên da diết nguyệt
ba canh.
Năm mòn mỏi mắt tin nhà
vắng,
Hoa trập trùng gương mái
tóc sanh!
Lòng chửa muốn về về ắt
được:
Năm Hồ khói sóng có ai
tranh.
Và 'châu nhất hệ cố viên
tâm’ lấy trong bài ‘Thu hứng’ của Đỗ Phủ:
Ngọc lộ điêu thương phong thọ lâm,
Vu Sơn Vu Giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên lũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô châu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp một châm.
Bài này người xưa đã có
dịch. Bài dịch rất hay nên xin tạm mượn:
Lác đác rừng phong hạt móc
xa
Ngàn Vu hiu hắt khí thu
già
Lưng trời sóng giợn lòng
sông thẳm,
Mặt đất mây ùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm hàng lệ
cũ,
Con thuyền buộc chặt mối
tình nhà.
Lạnh lùng dục kẻ tay đao xích,
Thành Bạch dồn châm bóng
ác tà.
Lấy nơi này một câu, lấy
nơi kia một đoạn, chắp lại thành một câu đối liền lạc như một chiếc áo trời
không đường may! Như thế là tài tình. Người không xem rộng, không nhớ dai,
không làm nổi.
Nhưng vì sao lại có câu đối
ấy?
Nguyên quan án CHU MẠNH
TRINH, một trang thiếu niên khoa giáp và một tay phổ thuộc phong lưu ở vào
khoảng cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ thứ 20 (1862-1905) một hôm đương ngồi nơi
tư dinh, thì có một người lạ mặt cùng một kẻ tuỳ tùng bưng một mâm trầu lá cau
trái, 2 chai rượu sen và ba trự bạc đồng, đến khúm núm thưa:
- Tôi là một chủ thuyền ở
Nam Kỳ ra buôn bán. Tết không về được, đến xin quan lớn một câu đối dán xuân.
Quan án vui vẻ nhận lời.
Đoạn sai mài mực lấy giấy bút viết:
‘Vọng Xuân xuân khả liên: lĩnh thụ trùng già thiên lý mục’
Rất lấy làm đắc ý. Song
nghĩ mãi vẫn không ra vế đối, chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong thư phòng.
Chợt một ông đồ ở nhà quê đến. Ông đồ vốn là chỗ cố giao của quan án, thỉnh
thoảng đến dinh thăm chơi. Quan án trông thấy mừng rỡ:
- Anh đồ đi đâu đó?
Không ở nhà lo tết sao?
Ông đồ cười:
- Để ăn tết được thích thú
phải đến quan huynh tìm chút xuân.
Quan án chỉ mâm trầu cau
rượu:
-
Xuân không thiếu
chi đó. Hễ đối được câu này thì mặc sức ăn Tết.
Đoạn giới thiệu người chủ
thuyền và đọc vế câu đối. Ông đồ ung dung lấy giấy bút, viết:
‘Bất qui qui tiện đắc’.
Quan án khen:
- Được! Tiếp mau.
Ông đồ rung đùi, cười:
- Chữ của cổ nhân
đã đúc sẵn, mình chỉ có việc đem ra dùng mà nôn gì.
Nói đoạn viết tiếp:
‘Cô châu nhất hệ cố viên tâm’.
Quan án vỗ vế khen:
- Hay! hay quá! Đủ cảnh đủ tình! Anh đồ thật giỏi! Thật
giỏi! Mình chịu thua.
Đoạn trao tờ hoa tiên cho
người chủ thuyền, rồi khui rượu cùng ông đồ nhấm. Rượu ngà ngà say, quan án sai
người gói trầu cau và chai rượu còn lại, vào bảo bà án đưa thêm hai trự bạc
nữa, để tặng ông đồ. Bà án lườm chồng:
- Một anh đồ gàn
nhưng hay chữ hơn chồng bà.
Rồi cười hả hả, trở ra
tiễn chân ông đồ:
- Ngày hết tết tới,
không dám cầm anh đồ ở lại lâu. Ông đồ ra về lòng vui với món quà xuân trọng
hậu. Quan án ở lại thích cùng câu đối tập cổ đầy ý vị xuân.
Và năm nay ăn tết xa quê
hương, bạn cũng nên mượn câu đối ‘Vọng xuân’
để làm vui lòng cổ viên vậy./.
22. HOÀNG HẠC LÂU
Nha Trang, tiết Lập xuân
năm Canh Tý (3/60)
Thân gởi MẠC KHÁNH DƯƠNG,
Hoàng Hạc Lâu (lầu Hoàng
Hạc) ở phía Tây Bắc thành Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc (Trung Hoa).
Truyền rằng xưa kia Phí
Văn Vy tu tiên đắc đạo, cỡi hạc vàng đi vân du có ghé lại Vũ Xương. Nhân có
người địa phương cây lầu làm kỷ niệm và đặt tên là Hoàng Hạc lâu.
THÔI HIỆU, 1 thi nhân đời
Thịnh Đường, đề nơi vắng lầu một bài thơ rằng:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du
du ..
Tình xuyên lịch lịch Hán
Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ
châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân
sầu!
Nghĩa đen là:
Người xưa đã cỡi hạc vàng đi rồi,
Nơi đây chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một đi không trở lại,
Mây trắng nghìn năm bay lững lờ.
Dòng sông lặng lẽ trông rõ mồn một cây cối đất Hán Dương,
Màu cỏ non thơm trải đờn đờn trên bãi Anh Vũ.
Ngày tối quê hương ở chốn nào ?
Sóng khói trên sông khiến người sanh sầu muộn.
Lý Thái Bạch lên chơi Hoàng Hạc lâu, hứng cảnh toan đề vịnh, chợt thấy
bài thơ của Thôi Hiệu, bèn quăng bút than:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
Nghĩa là: Có cảnh trước mắt mà nói không được, vì có bài thơ Thôi Hiệu
đề ở trên đầu.
Kim Thánh Thán, một nhà phê bình lỗi lạc đời Thanh, khen bài Hoàng Hạc
lâu của họ Thôi là bút pháp kỳ diệu, hay quán cổ kim. Các danh sỹ đời sau hầu
hết cũng đều tán phục.
Khen là phải, vì chẳng những văn chương cổ kính, mà lập ý của tác giả
lại khác thường.
Nhan đề của bài là Hoàng Hạc lâu, mà trong bài không tả gì về
Hoàng Hạc lâu cả. Tác giả mượn cảnh để
tả tình. Hoàng Hạc lâu chỉ là cái dinh, họ Thôi mượn để treo bức tranh tâm sự.
Bài thơ ngậm chứa nỗi lòng hoài cổ thương kim, và gây một bầu không khí
vừa mênh mông vừa tịch mịch.
Bốn câu đầu cho ta thấy vẻ hoang liêu của lầu. Hai câu trên tả cảnh cô
đơn đối với không gian vô cùng. Hai câu dưới tả cảnh lạnh vắng trong thời gian
vô tận.
Và lòng luyến tiếc nhớ thương tràn lan dưới dòng chữ :
Chiếc lầu đứng trơ, có phải con người tương tư đã thành đá? Mà con hạc
vàng bay mất tượng trưng cho quá khứ huy hoàng? Và mây trắng còn bay thể hiện
nỗi lòng tiếc thương, lớp này qua lớp khác nổi, nghìn thu rồi nghìn thu?
Lòng người là thế. Nhưng tạo vật vốn vô tình!
Trước cái vô cùng vô tận, không có có không, sông vẫn lặng lẽ trôi,
vẫn in bóng chung quanh vào lòng mà vẫn
không giữ lại mảy may nào hết, và cây vẫn sanh cỏ vẫn mọc, cao tốt xanh tươi.
Hai câu 5, 6 đã nói lên sự hờ hững của tạo vật trước sự xao xuyến của
lòng người, một cách thâm trầm tế nhị. Và dưới vẻ thanh thản của lời thơ, chúng
ta nghe tiếng thổn thức của thi nhân nửa như buồn thương, nửa như trách móc!
Và đọc suốt 6 câu, chúng ta nhận thấy tác giả đã đi từ quá khứ đến hiện
tại, đi từ chỗ xa xăm mịt mờ đến chỗ gần gũi trước mắt. Đi từ chỗ không có của
con hạc vàng, đến chỗ có của lầu Hoàng Hạc và làn mây trắng phất phơ. Rồi từ
trên trời với làn mây trắng, đi xuống tới mặt đất với sông bãi cỏ cây… Bức
tranh tâm hưởng trãi từ từ, và nét đi
từ nhạt đến đậm. Mà nét bút càng đậm
khng cảnh lại càng thu hẹp lại dần dần, để rồi rút gọn vào con người bé nhỏ:
Tác giả!
Tác giả đối với không gian không bờ, thời gian không cuối, cảm thấy sự
nhỏ nhen của thân, sự ngắn ngủi của đời, sự vô tình của tạo vật, tự nhiên thấy
cần tìm một nơi cho lòng nương tựa để bớt nỗi hiu quạnh lạnh lùng. Mà còn tìm
nơi nào thích hợp hơn nơi có những tấm tình thương yêu trìu mến: Quê hương.
Vâng phải tìm một nơi để gởi lòng cho ấm cúng, ít nhất cho đỡ cô liêu.
Cỏ cây sông bãi tuy vô tình, song thấy đó vẫn còn hơn không có gì
trước mắt. Bây giờ chiều đã xuống rồi,
mọi vật sắp chìm trong bóng tối, lòng hiu quạnh sẽ thêm nỗi lạnh lùng, cho nên
sự tìm về quê hương để tìm đôi chút yên ủi của người thân thích, láng giềng,
lại càng thấy cấp thiết.
Nhưng quê hương ở nơi nào? Biết tìm đâu? Biết về đâu? Lòng đã buồn lại thêm buồn, buồn vô cùng vô
tận, liên miên dồn dập như sóng khói trên mặt sông!
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân
sầu!
Mà quê hương đây vừa chỉ nơi ‘sanh ký’ của tác giả, vừa nhắc đến nơi
‘tử qui’ của con người ta.
Người xưa đã đi rồi, mình đây sẽ nối tiếp. Đến cả người tiên đã tu được
phép trường sanh, như Phí văn Vy, mà cuối cùng cũng phải đi về cõi chết, huống
hồ con người thế gian còn đó, cuộc đời ngắn ngủi chẳng khác bóng trời chiều.
Nhưng người xưa đi về đâu, thật không ai biết! Cho nên rồi đây mình
cũng không biết sẽ đi về đâu! Nhìn cảnh vô thường hiển hiện trên làn khói sóng,
lòng đã buồn càng buồn thêm!
Lòng sầu vạn cổ, mối băn khoăn triết lý (angoisse mé-taphysique) của
tác giả tràn ngập trong bài thơ. Nỗi buồn ban đầu mênh mông, bát ngát, lần lần
cô đọng lại để chìm sâu vào cõi lòng liền cùng sóng khói tuôn ra ngoài cõi mênh
mông bát ngát.
Bài thơ mở ra một cách mông lung và khép lại một cách chặt chẽ, và khép
lại để đưa người sang một thế giới khác ở ngoài lời thơ, một thế giới ảo mộng u
huyền.
Cái kỳ diệu bài thơ là thế. Phải lắng lòng mình theo thơ, phải lắng
lòng mình theo thơ, phải soi bóng mình vào thơ, thì mới nhận thấy được cái hay
cái đẹp, mới thông cảm được với người đã làm ra thơ.
Vì là một bài thơ tuyệt tác nên Hoàng Hạc lâu truyền tụng được sâu rộng
và lâu dài. Có nhiều người đã dịch ra quốc văn, như Tản Đà, Trần Trọng Kim, Ngô
Tất Tố, Bùi Khánh Đản và một nhà vô danh trong văn học sử Trung Quốc của Nguyễn
Hiến Lê. Những bài thơ dịch ấy hầu hết đều sát ý nghĩa của nguyên tác, nhưng
theo chủ quan của tôi thì bài của tản Đà riêng sang sớt được tinh thần của
nguyên văn.
Đây bài dịch của Tản Đà:
Hạc vàng ai cỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay..
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng đây.
Sự nhận thức và ý kiến của tôi về bài Hoàng Hạc lâu là thế. Phải không
không phải, mong nhờ lời chỉ giáo của các bậc cao minh./.