23. THI THIÊN TỬ
Nha Trang, tiết Võ Thuỷ năm Canh Tý (1960)
Anh Nguyễn Huy Tự,
‘THI THIÊN TỬ’ là danh hiệu người ta tặng cho VƯƠNG CHI HOÁN, một thi
nhân đời Thịnh Đường.
Nguyên một hôm, Vương Chi Hoán cùng hai bạn thơ là VƯƠNG XƯƠNG LINH và
CAO THÍCH đương ngồi đối ẩm trong một tửu lâu thì một đoàn ca kỹ ôm đàn phách
tới. Chi
Hoán bảo hai bạn:
- Lâu nay chúng ta
không ai chịu nhượng ai. Nay tôi xin giao hẹn: Hễ thơ ai được bọn ca kỹ ngâm
hát nhiều nhất thì người ấy được tôn làm
thiên tử, còn thì làm chư hầu.
Vương Xương Linh và Cao
Thích gật đầu và cùng nâng chén ngồi đợi.
Ba nhà vốn là những bậc có
danh, văn chương lại rất phổ biến trong làng ca nhạc. Nhưng vì không được ai
biết mặt, nên khi vào đoàn ca kỹ không để tâm. Hồi lâu một ả gõ phách ca bài
TÒNG QUÂN HÀNH của Xương Linh:
Tỳ bà khởi vũ hoán tân thanh,
Tổng thị quan san ly biệt tình!
Liêu loạn biên sầu đàn bất tận!
Cao cao thu nguyệt chiếu trường thành.
Phỏng dịch:
Nôn nao khúc mới động giây Tỳ,
Tình bận quan san tiếng biệt ly!
Cửa ải sầu đoanh đàn chẳng hết!
Trường thành trăng lạnh ánh quang huy.
Rồi ca tiếp bài PHÙ DUNG
LẦU TỐNG TÂN TIỆM của Xương Linh:
Hàn võ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô!
Lạc Dương thân hữu như tương vấn:
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Phỏng dịch:
Sông Ngô dừng mái lạnh đêm mưa,
Sáng tiễn người đi núi Sở trơ !
Bằng hữu Lạc Dương như hỏi đến:
Băng trong hồ ngọc tấm lòng xưa.
Kế một ả khác cất giọng
ngâm bài BIỆT ĐỎNG ĐẠI của Cao Thích:
Thập lý hoàng vân bạch nhật huân,
Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân..
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ:
Thiên hạ hà nhân bất thức quân.
Tạm dịch:
Mười dặm mây vàng bóng ác soi,
Hơi may thổi nhạn tuyết tơi bời.
Chớ sầu đường trước không tri kỷ:
Thiên hạ quen anh chẳng thiếu người.
Vương Xương Linh và Cao
Thích đắc ý rung đùi. Vương Chi Hoán tức mình nói:
- Thứ ca kỹ quê
mùa, vừa xấu vừa dốt, biết sao được những khúc nhã điệu cao tình.
Đoạn chỉ một người đẹp nhất đám.
- Nếu con bé kháu
khỉnh kia mà không hát thơ tôi thì suốt đời tôi chịu thua các anh. Bằng trái
lại, các anh phải xá tôi làm thiên tử.
Vừa dứt lời thì cô bé lên
dây tỳ, vừa gảy vừa hát khúc LƯƠNG CHÂU TỪ của Chi Hoán:
Hoàng Hà viễn thượng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhẫn san!
Khương địch hà tu oán dương liễu?!
Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan.
Tạm dịch:
Ngọc nước Hoàng Hà tiếp bạch vân,
Thành côi một mảnh núi muôn tầng.
Vì chi địch Rợ oán dương liễu?!
Ai Ngọc hằng không lọt gió xuân!
Vương Chi Hoán vỗ bàn cười
lớn:
- Tôi nói có sai
đâu. Các anh đã chịu xưng thần chưa đó?
Đoàn ca kỹ nghe cười nói
to tiếng, ngạc nhiên, lân la lại hỏi chuyện. Biết ra, vừa lấy làm thú vị vừa
mừng được gặp người hâm mộ mà chưa quen. Để tỏ lòng hân hoan cả đoàn chung nhau
làm tiệc đãi.
Câu chuyện lưu truyền ai
cũng lấy làm thích thú, bèn gọi Vương Chi Hoán là Thi Thiên Tử; nghĩa là ông
Thiên tử trong nước Thi.
Thế là nhờ bài Lương Châu
Từ mà danh Vương Chi Hoán thêm hiển hách.
Người đồng thời là VƯƠNG
HÀN cũng có bài Lương Châu Từ rất được truyền tụng:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi!
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu:
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?!
Tạm dịch:
Rượu đào thơm ngát chén pha lê,
Toan uống đàn bôn dục dã đi!
Say ngã sa tràng chàng chớ mỉa:
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?!
Bài này tánh chất khác hẳn
bài của Vương Chi Hoán. Bài của Chi Hoán từ kiện và ý nhiệm. Bài của Vương Hàn
văn điệu và tứ thâm. Một bên khí nặng mà phải dằn. Một bên tình nhiều mà cố
nén. Nhưng cả hai đều ngậm ý chua chát mỉa mai: cây liễu nơi Ngọc Môn Quan,
cành lá không sanh, vì gió xuân không thổi tới. Thế mà bọn rợ Khương còn thổi
khúc Chiết Liễu để tỏ lòng oán trách cảnh biệt ly! Người ở nhà được yên vui với
vợ con, đã không thương kẻ đem thân bỏ chiến trường, lại còn chê cười khi thấy
người ta tìm cái say để quên cái chết! Ý
không nói mà vô cùng! Tình không tỏ mà bất tận. Thật là ‘vị nội vị, thinh ngoại
huyền’. Cái hay của Đường Thi, nhất là về thơ tuyệt cú, phải ý hội chớ không
thể ngôn truyền là vì thế.
Và nếu hỏi hai bài LƯƠNG
CHÂU, bài nào hơn bài nào, thì không ai dám quả quyết.
Cùng một đề tài mà còn
thế, huống hồ đối với những bài của Cao Thích và Vương Xương Linh.
Bài TÒNG QUÂN HÀNH thì lâm
ly bi tráng.
Bài PHÙ DUNG LẦU TỐNG TÂN
TIỆM thì thanh cao.
Bài TỐNG ĐỎNG ĐẠI thì
khoan và tự tại.
Bài LƯƠNG CHÂU TỪ của Chi
Hoán, cảm khái nhưng hiên ngang.
Thật không thể phân biệt
được Dương Quí Phi hơn Tây Thi hay Chiêu Quân hơn Phi Yến.
Còn nói về toàn thể sự
nghiệp của ba nhà, thì Vương Xương Linh sở trường về thơ tuyệt cú. Những bài về
biên tái về cung trung… từ diệu ý thâm, xưa nay ít nhà sánh kịp. Thơ Cao Thích
thì hùng kiện và có nhiều giai tác lưu truyền.
Riêng về Vương Chi Hoán,
tôi không được đọc nhiều. Nhưng danh hiệu THI THIÊN TỬ mà thời nhân tặng họ
Vương, tuy do một câu chuyện lý thú, chứ không phải bằng vào tánh chất văn
chương hay tài nghệ của tác giả như danh hiệu THI THÁNH của Đỗ Phủ, THI TIÊN
của Lý Thái Bạch…, vẫn làm cho tôi tin rằng Vương Chi Hoán cũng là một tay cự
phách thời Thịnh Đường. Vì nếu là một thi nhân dung thường thì dù chi chi cũng
không ai chịu kêu là thiên tử.
__________________________________
(1)
Tái bút: Bài “Bồ
Đào mỹ tửu…” dịch lại:
Rượu đào ngát chén dạ quang
Rót chưa kịp uống tiếng đàn giục đi
Sa trường sóng ngã cười chi.
Xưa nay chinh chiến mấy khi mà về.
(Q.T.)
24. NGA NGA
LƯỠNG NGA NGA
Nha trang tiết Hạ Chí năm Tân Sửu (1961)
Chú VŨ HÂN,
Bài NGA NGA LƯỠNG NGA NGA đã có nhiều sách nhiều báo
nói đến rồi. Thể theo lời chú, tôi xin nói lại để cùng chú và các bạn trẻ quen
thân mua vui:
Năm Đinh Mão (997) sứ nhà Tống là LÝ GIÁC sang Việt
Nam ta. Vua Lê Hoàng sai sư PHÁP THUẬN
cải trang, giả làm lái đò ra đón sứ giả tại bến Sách Giang. Lý Giác là một nhà
thơ có danh của Trung Quốc, ngồi trong thuyền thấy đôi ngỗng trắng bơi nhởn nhơ
trên mặr nước bèn ngâm:
Nga nga lưỡng
nga nga
Ngưỡng diện
hướng thiên nha
Nghĩa là:
Ngỗng kìa ngỗng một đôi
Ngưỡng cổ ngóng chân trời.
Trong khi Lý Giác đương tìm tứ thì Pháp Thuận vừa chèo
vừa ngâm tiếp:
Bạch mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba
Nghĩa là:
Nước xanh lông tuyết trải
Sóng lục chân hồng bơi.
Lý Giác hết sức kinh dị, về sứ quán liền tặng cho nhà
sư một bài thơ thất ngôn bát cú mà câu kết rằng:
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.
Nghĩa là:
Ngoài trời còn có trời soi sáng
Sóng lặng đầm khe bóng nguyệt ngời.
Những vần thơ trên đều là những vần thơ bất hủ.
Bài NGA NGA lại là một bài thơ ngỡ bình dị tự nhiên mà
thật hàm súc thâm diệu. Cổ nhân khen là ‘Thi trung hữu hoạ’. Tôi xin thêm là
‘Hoạ trung hữu đạo’. Bởi vì bài NGA NGA chẳng những là một bức tranh tuyệt mỹ
bằng lời, mà còn là một bài kệ hé đường cho những người có lòng đi tìm nơi ‘an
tâm lập mạng’.
Đó là một áng văn chương đầy thi vị lẫn đạo vị. Nhìn
vào chúng ta vừa được hưởng cái thú vị thanh khiết của một phong cảnh hữu tình,
vừa thấy được cái quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của Đạo Phật.
Quan niệm ấy như thế nào?
Vạn Vật nghĩa là tất cả những hiện tượng vật chất và
tinh thần, tất cả những loài hữu hình và vô hình thì vô số vô lượng, ngàn sai
muôn khác, nhưng đều là những hiện tượng có hoại diệt, không có một hiện tượng
nào vĩnh cữu, bất biến cả. Tất cả đều tồn tại một cách giả tạm, ngẫu nhiên. Lắm
khi sự vật đương có liền trở thành không, đang không bỗng trở nên có, biến
chuyển mau chóng, vô thường.
Tuy nhiên, qua sự biến chuyển, sự tiêu hoại của sự
vật, vẫn còn có một cái gì không bị biến chuyển, không bị tiêu hoại. Ví dụ các
lớp sóng, lớp này thành lớp kia hoại, lớp này hoại lớp kia thành, và qua sự
thành hoại của các lớp sóng, vẫn còn có một cái không thành hoại, ấy la Nước. Đối
với sự vật cũng thế. Và cái không biến chuyển không tiêu hoại của sự vật, đạo
Phật gọi là CHƠN NHƯ.
Nước là bản thể của Sóng.
CHƠN NHƯ là Bản thể bất biến của vạn vật.
CHƠN NHƯ không sanh không diệt, ở đâu và lúc nào cũng
thế. Tâm thức chúng ta không nhận được
nó, kỳ thực nó là nguồn gốc phát sinh của vạn vật. Nói một cách khác: CHƠN NHƯ
cũng chính là vạn vật, nhưng vì Vô Minh che lấp, nên khả năng trí thức của
chúng ta không nhận được CHƠN NHƯ (tức là BẢN THỂ) mà chỉ nhận được vạn vật
(tức là Hiện tượng).
Và vì Vô Minh si ám nên ý thức làm phát hiện vạn vật
hiện tượng nhìn sai muôn khác, thành ra có chủ thể có đối tượng, tức là có TÂM
có CẢNH.
Như thế, tuy có Tâm có Cảnh, kỳ thực Tâm và Cảnh chỉ
là một (Tâm cảnh nhất Như), tuy sự vật nghìn khác muôn sai, nhưng tất cả đều
chung một Bản Thể (Vạn hữu nhất thể).
Câu “Nga Nga
lưỡng Nga Nga” hàm nhiếp lý nghĩa: “Tâm cảnh nhất như, nhưng hiện có tâm có
cảnh”.
Chữ Nga Nga tượng trưng cho Bản Thể bất biến, hồn
nhiên và vô phân biệt.
Bản Thể chỉ là một. Nhưng vì ý thức tức Vô minh nên
mới phân biệt chủ thể và đối tượng.
Chữ lương biểu thị cho sự phân biệt kia vậy.
Tuy phân biệt, nhưng đối tượng của sự phân biệt chỉ là
vạn vật hiện tượng chớ không phải la Chơn như Bản thể. Và tuy có Tâm có Cảnh,
nhưng Tâm và Cảnh đều bắt nguồn từ Giác Hải chơn thường, cho nên dêu hướng về
Chơn Như Thể Tánh, cũng như hai con Nga Nga đều: Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Chữ THIÊN NHA
tượng trưng cho THỂ TÁNH. Vì Thể tánh tức Chơn Như, vốn phi hình phi sắc, không
thể bảo là “CÓ” mà cũng không thể bảo là “KHÔNG”. Sắc ấy không, không ấy sắc,
chẳng khác chi chân trời kia không mà có có mà không vậy.
Nói tóm lại, hai câu thơ của Lý Giác:
Nga Nga lưỡng Nga Nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Ý nói: Vạn vật biến sinh từ Diệu Giác và đều qui về
Giác Hải Chơn Như.
Còn hai câu thơ của Pháp Thuận, câu “Bạch mao phô lục thuỷ” chỉ về sứ giả,
câu “Hồng trạo bãi thanh ba” nói về
nhà sư.
Tác giả mượn chữ BẠCH MAO để ám chỉ sứ giả là một y cư
sỹ có đạo tâm và để tượng trưng cho Bồ Tát hạnh. Mượn chữ HỒNG TRẠO để ám chỉ
nhà sư là một hồng y tu sỹ lo việc tu hành và để biển thị cho Thinh Văn hạnh.
Chữ LỤC THUỶ miêu tả cuộc đời sâu thẳm không lường. Vì
nước có sâu sắc mới lục, mà nước càng sâu, sự biến chuyển càng khó nghĩ nghì.
Chữ THANH BA hình dung những đợt sóng lòng dục vọng
phiền não nổi mãi không thôi, hết lớp này đến lớp khác.
Bạc mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba
Ý nói: Sứ giả là một cư sỹ áo trắng hiện đem tài năng
ra phụng sự quốc gia, đem đạo tâm ra độ sinh tế thế. Còn người lái đò là một tu
sỹ áo hồng, ngoài mặt thì thảnh thơi nhàn nhã, nhưng đi sâu vào nội tâm thì
thấy luôn luôn chiến đấu cùng dục vọng phiền não để đi đến bờ giác bên kia.
Đó là ý cạn.
Đi sâu thêm một tầng nữa thì thấy rõ ràng hai câu của
Pháp Thuận bồi bổ cho hai câu của Lý Giác được viên mãn. Hai bên khắng khít
nhau như đôi ngỗng cùng bơi, khắng khít nhau như đầu ngỗng, thân ngỗng và chân
ngỗng.
Hai câu của Lý Giác, như trên đã nói, phô diễn chơn
lý: tâm cảnh là một và vạn vật đều là Như Như hiển hiện. Tuy nhiên , muốn thân
chứng được Như Như thì cần phải “Hướng thiên nha” tức là cần phải quay đầu về
với Chơn Tánh.
Hai câu của Pháp Thuận giảng tiếp rằng:
- Trên đường về,
người tu hành phải làm gì đây?
Ngoài đời phải đem Bồ Tát hạnh phục vụ quần sanh để
làm cho cảnh đời trở nên vui tươi trong sạch đẹp đẽ như lông ngỗng trắng trải
trên màu nước xanh. Và trong khi phục vụ quần sanh phải giữ tam nghiệp (Thân
nghiệp khẩu nghiệp và ý nghiệp) cho được tinh khiết, ví như lông ngỗng kia tuy
gần nước nhưng không bị nước làm ướt át đắm chìm.
Còn trong lòng thì phải lo chiến thắng dục vọng phiền
não như đôi chân ngỗng chiến đấu cùng sóng sông. Nước xanh hiện nay là sóng
xanh, thì tâm chơn như hiện là tâm phiền não. Người tu hành tuy ở trong phiền
não, nhưng cần phải cỡi sóng phiền não, chớ không phải lìa xa sóng phiền não vì
không có phiền não thì không có Bồ Đề, để lướt về “Thiên Nha”
Như thế mới mong thân chứng Như Như, mới thành chánh
quả.
Đó là quan niệm của Phái Thiền Tông chủ trương cái
thuyết “Vạn hữu nhất thể”, “Tâm pháp nhất như” của Đại Thừa, và dùng làm cơ sở
để phát dương Chánh Đạo trong các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, (thế kỷ X, XI, XII,
XIII ). Lý Giác và Pháp Thuận là những người được hấp thụ trong bầu triết lý
thâm thuý của Phật học nên văn chương thấm nhuần đạo vị như thế kể cũng không
có chi là lạ.
Bài NGA NGA còn có thể đem luận về TAM QUAN.
Nhưng thôi.
Vì vốn là người đứng ngoài./.