27. CHIẾC GIÀY THƠM
Nha Trang, tiết Tiểu Thử năm Nhâm Dần
(7/62)
Anh Quách Vĩnh Khương,
Hương Phiệt (chiếc giày thơm) là tên
một quyển tiểu thuyết, bằng chữ Hán, viết theo thể Thất ngôn Cổ phong.
Đó là một tác phẩm đời Trần. Tác giả
là ai không được rõ, chỉ thấy chép trong bộ Toàn Việt Thi Lục của Lê Quí Đôn.
Câu chuyện như thế này:
Đồng Xuân ở bên cầu sông Nhị. Phố xá
chật đất, lâu đài vút mây. Bóng hoè xanh, bóng liễu lục ưởng ánh sắc màn gấm
sắc rèm châu.
Trong vùng có nhà họ Trương.
Họ Trương có người con gái nhan như
ngọc.
Nàng mới 16 tuổi. Làn da mỡ đông, mái
tóc mây uốn. Đôi má ửng hồng, đôi mày đắm lục. Cốt cách là mai in tuyết. Tinh
thần là ngọc non Lam
Một hôm nhân tiết xuân thiên, nàng ra
đứng tựa lan can hóng mát. Đứng mỏi, ven rèm bước xuống sân. Giày thơm nang gót
sen, nàng bước lững thững trên những cách hoa rụng. Nô đùa nàng nhặt đôi mảnh
tàn hồng cài lên mấy nhánh trống. Trên giàn tường vi từng trận hương phong
thổi. Quần lụa điều , áo là trắng lộng gió bay phất phơ. Thân rthơ trước lầu, trông
thấy đôi mủi giày khi ẩn khi hiện, có thể ngờ rằng người tiên cỡi loan đi trong
bóng trăng.
Chợt chàng họ Lý cỡi ngựa đi chơi xuân
trên đường lục dương. Trong ánh dương xanh, trông thấy nàng họ Trương, lòng
chàng bỗng nhiên sanh bàng hoàng. Chàng xuống ngựa đứng trước lầu.
Nàng họ Trương ngó thấy liền bước vội
lên lầu. Và
Cửa lầu xũ bức rèm hương
Mây La Phù khoá nghẹn đường Thiên Thai.
Từ ấy, ngày ngày chàng họ Lý mãi thẩn
thơ bên cầu. Nhưng không mối không mai, đành ngậm tình bứt rứt.
Một chiều kia, bỗng gặp người tớ gái
nhà họ Trương, tên Hồng Hạnh, đi mua phấn về ngang qua cầu. Chàng Lý bèn đón
lại hỏi thăm, rồi ngỏ thật tâm sự. Chàng nói:
- Tôi họ Lý tên Quốc Ba, là một công
tử chốn Trường An. Tuổi mới hai mươi. Tánh ưa đọc sách. Chân chưa hề bước đến
chốn Bình Khang. Hôm trước tình cờ trông thấy gia nương của nàng, lòng cầm mong
hội cầu ý phụng.
Nói đoạn lấy trong tay áo một tờ hoa
tiên màu bích, đưa cho Hồng Hạnh:
- Xin nhờ nàng trao lại cho Trương
tiểu thơ.
Nàng họ Trương xem thơ, lòng thơm xúc
động. Hồng gầy gõ, lục võ vàng. Nửa bức rèm hoa màu xuân tịch mịch, ba canh
trướng phấn mùi hương ngùi ngùi. Nàng
bèn viết một phong thư sai Hồng Hạnh đem cho chàng Lý.
Chàng Lý theo lời thơ, đạp trăng đến
vườn hoa.
Vừa mới gặp nhau lòng đã như quen biết
cũ. Vui mừng không nén, nhưng tình hoài muốn tỏ, lại sợ tai mắt không che. Nên
đành vội biệt nhau và hẹn nhau khuya mồng ba tháng ba sẽ gặp nhau trên cầu cho
được thanh vắng.
Ai ngờ việc đời khó như nguyện.
Hôm ấy quan Kim Ngô giữ chàng Lý ở lại
phủ. Một mình nàng họ Trương đến nơi cầu. Trông rồi lại trông mà người yêu mãi
không thấy, chỉ thấy trên cầu bóng trăng soi lửng lơ, dưới cầu dòng sông trôi
lạnh lẽo. Nỗi thương tâm không cầm giữ được, khiến tuông theo hai hàng lệ sụt
sùi. Đồng hồ đã cạn, tiếng chuông báo canh tàn. Nàng không thể chờ được, đành
nuốt giận trở về. Nhưng để cho chàng Lý nhận thấy rõ thâm tình nàng rút chiếc
giày hoa để lại nơi cột cầu rồi mới cất bước.
Đến canh năm quan Kim Ngô mới buông
chàng Lý. Chàng đến cầu thì trời chưa sáng. Nơi cột cầu mùi hương phảng phất, mà
nhìn chung quanh không thấy bóng giai nhân. Tiếng vượn thương tâm hồn quyên rỏ
huyết. Chàng buồn não, ôm chiếc giày mà nằm. Ruột đứt tương tư, hồn bay vất
vưởng bên lầu nàng họ Trương, xác nằm bên cầu mà chết.
Vừa lúc ấy quan thiếu sư họ Trần đi
ngang qua. Thiếu sư là người lão luyện, hiểu biết tình hoài xuân của bọn nam
nữ, bàen cầm chiếc giày đi hỏi thăm khắp nơi. Đến nhà họ Trương, ướm thử giày
thấy vừa vặn. Ban đầu nàng họ Trương còn dấu diếm, rồi nức nở nói câu được câu
không, cuối cùng chạy đến ôm lấy chàng Lý mà khóc, và khấn rằng:
- Lương duyên đã không hợp được nhau,
thì xin cùng hợp nhau trong một huyệt.
Âm dương giao cảm, tình thâm giao hội,
hồn không đợi chiêu, giấc không đợi lay mà chàng Lý lần lần tỉnh dậy. Để cảm
đền ơn đức, chàng Lý và nàng Trương sụp lạy Trần thiếu sư. Sư bỏ ra về vừa cười
vừa nói:
- Vì hai người ta trở thành mụ mai
dong!
Liền đó chàng Lý tương sáu lễ đến nhà
họ Trương. Trước lầu cây đàn cầm hoà cùng cây đàn sắt. Trong màn con chim oang
giao cổ cùng con chim ương. Và hao liền một cuống, màu lục màu hồng ôm giữ tình
xuân diễm lệ cho đến tuổi trăm năm.
Cho hay đôi lứa từ xưa đến nay, đều có
mạng, không nên để cho tai mắt làm sai tánh trời. Và chẳng riêng gì việc chàng
Lý nàng Trương, muôn việc trên đời đều có tiền định.
Câu chuyện thật lý thú. Một câu chuyện
thật trữ tình, dùng thuyết "tiền định" để kết luận. Tình tiết phảng
phất chuyện "hoa đào" của Thôi Hộ đời Đường.
Toàn chuyện gốm 102 câu thất ngôn. Văn
chương tuy không sánh kịp Tỳ Bà Hành hay Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị song rất
lưu loát thanh nhã.
Xin trích một đôi đoạn nho nhỏ để anh
xem cho vui.
Đây là đoạn tả nàng Trương đi dạo
trước sân:
Xuân phong quyện ỷ mộc lan khúc
Khúc lan ỷ biến khỉ la vi
Hương phiệt khinh dinh liên
bộ trì.
Đình tiền hốt đạp lạc ba tối
Hý thập tàn hồng trang cựu
chi
Tường vi giá thượng hương
phong khỉ
Hồng quần tố luyện phiêu
phiêu cử
Xước ước lầu tiền lệ phiệt
tiêm
Quan như nguyệt hạ thừa loan
nữ.
Để
cho thêm vui tôi xin dịch phỏng:
Thẫn thờ đứng tựa lan can
Gió xuân uể oải vén màn bước ra.
Giày thơm dìu nhẹ gót hoa
Đầy sân đạp cánh hương sa ngại ngùng…
Trức nhìn thấy nhánh không bông,
Mua vui nhặt
mảnh tàn hồng dắt lên
Giàn hương
gió lộng từng cơn
Quần hồng áo
trắng chập chờn tung bay.
Lầu hoa lững
thững dấu giày
Mơ màng dưới
nguyệt tiên bay xuống phàm.
Và đây một đoạn nữa, đoạn tả lúc chàng Lý đến cầu không
trông thấy nàng Trương:
Ngũ canh thỉ
phóng Lý lang hành
Hành đáo hà
kiều thiên vị minh.
Hốt văn dinh
ngoại thanh hương phát,
Tứ cố vô nhân
chánh sầu tuyệt.
Vu hiệp vân
thâm viên đoạn trường
Giang Nam
xuân lão quyên đề huyết
Huyết càn
trường đoạn tình vị dĩ
B ảo phiệt
trường miên phò bất khỉ
Hương hồn phi
thượng Trương gia lầu
Kiều biên
toại tác tương tư tử.
Tạm dịch:
Canh năm quan
mới buông chàng
Đến cầu sương
chửa vén màn bình minh.
Bên cầu
thoang thoảng hương thanh,
Quanh cầu
vắng vẻ, sầu đoanh bóng cầu.
Non Vu mây ảm
đạm màu
Vượn đau kiếp
vượn, lòng đau nỗi lòng.
Giang Nam
xuân hết não nùng!
Hơi quyên gió
lạnh, máu hồng lệ rơi…
Máu kh, ruột
đứt tơi bời,
Ôm giày nằm
liệm dấu người tình chung.
Hồn hương bay
tới lầu hồng,
Xác tương tư
để lạnh lùng nước mây!
Chắc anh sẽ bảo tôi: Nguyên văn hay lắm, chú nên dịch
toàn thể để làm giàu cho kho Quốc âm.
Tôi xin thưa:
Bà Đoàn thị Điểm đã dịch Chinh Phụ Ngâm, Phan Huy Vịnh
đã dịch Tỳ Bà Hành và Tản Đà đã dịch Trường Hận Ca, thì tôi không nên
"xách giày" dù là "giày hương" chạy theo quý vị tiền bối
ấy.
Xin chào anh./.
28. KHÓC DƯƠNG KHUÊ
Nha Trang tiết Lập Thu năm Nhâm Dần (10/62)
Bạn Kính Sơn,
Những áng văn xưa còn truyền lại, phần nhiều bị tam
sao thất bổn. Bài Khóc Dương Khuê của cụ Tam nguyên Yên Đỗ, theo giáo sư Nguyễn
Văn Xung đã đọc cho tôi nghe, thì như thế này:
Bác Dương
thôi đã thôi rồi,
Yên xong phận
bác ngậm ngùi lòng tôi!
Nhớ từ thuở
tranh khôi ngày trước,
Bạn bút
nghiên tôi bác cùng nhau.
Kính yêu từ
trước đến sau
Cái duyên hội
ngộ khác đâu duyên trời.
Cũng có lúc
chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối reo róc rách lưng đèo;
Tiếng suối reo róc rách lưng đèo;
Có khi từng
hát cheo leo
Thú vui tao
nhã lựa chiều cầm tôn;
Cũng có lúc
rượu ngon cùng nhắp
Chén quỳnh
tương ăm ắp bầu xuân;
Có khi bàn
bạc câu văn,
Biết bao đông
bích điểm phần trước sau.
Buổi dương
cửu cùng nhau tính sổ
Phận đẩu
thăng chi có than trời.
Bác già tôi
cũng già rồi,
Thôi thôi!
Thôi thế thời thôi,thế mà..
Việc đi lại
tuổi già thêm nhác,
Gặp nhau ba
năm trước một lần
Cầm tay hỏi
hết xa gần
Mừng rằng bác
vẫn tinh thần chưa can.
Tuổi tôi kể
còn hơn tuổi bác
Tôi lại thêm
đau trước mấy ngày
Làm sao bác
vội về ngay?
Nghe tin tôi
bổng chân tay rụng rời!
Ai chả biết
chán đời là phải
Vội vàng chi
bác mãi lên tiên?!
Rượu ngon
không có bạn hiền,
Không mua
không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ
đắn đo chẳng viết,
Viết đưa ai
ai biết mà đưa!
Giường kia ai
nữa mà chờ
Đàn kia ai
nữa mà tơ tưởng đàn!
Bác chẳng ở
dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy
thương lấy nhớ làm thương.
Tuổi già hạt
lệ như sương,
Hơi đâu mà
khóc tang thương sự đời…
Bài này có nhiều câu khác với bài chép trong Văn Đàn
Bảo Giám của ông Trần Trung Viên. Sáu câu đầu Văn Đàn Bảo Giám chép rằng:
Bác Dương
thôi đã thôi rồi
Nước mây man
mác ngậm ngùi lòng tôi!
Nhớ từ thuở
đăng khoa ngày trước,
Lúc sớm khuya
tôi bác cùng nhau.
Kính yêu từ
trước đến sau,
Trong cơn gặp
gỡ biết đâu duyên trời..
Câu 9,10:
Có khi từng
gác cheo leo
Thú vui con
hát lựa chiều cầm xoang.
Câu 17, 18:
Tôi già bác
cũng già rồi
Biết thôi
thôi thế thì thôi mới là
Câu 23, 24:
Kể tuổi tôi
còn hơn tuổi bác
Tôi lại đau
trước bác mấy ngày.
Câu 27, 28:
Ai chả biết
chán đời là phải
Sao vội vàng
đã mãi lên tiên.
Câu 31,32,33,34:
Thơ muốn viết
đắn đo chẳng viết
Viết đưa ai
ai biết mà đưa
Giường kia
treo những hững hờ
Đàn kia muốn
gãy ngẩn ngơ tiếng đàn.
Câu 37, 38:
Tuổi già hạt
lệ như sương
Hơi đâu mang
lấy hai hàng chứa chan.
Những câu sai khác trên đây cũng có câu hơn cũng có
câu kém. Và bài quốc âm "Khóc Dương Khuê" là bản dịch bài
""Điếu Dương Khuê Văn" bằng chữ Hán. Tác giả đã tự dịch lấy. Để
xem trong 2 bản của giáo sư Nguyễn Văn Xung và Văn Đàn Bảo Giám, những câu nào
nên thủ, những câu nào nên xả, chúng ta cần so sánh với nguyên tác. Đây:
Dĩ hỹ Dương
đại niên!
Vân thụ tâm
huyền huyền
Hồi ức đăng
khoa nhật
Dữ công thần
tịch liên
Tương kính
thả tương ái
Tao phùng như
túc duyên
Hữu thời xuất
kinh lộ
Không sơn văn
lạc tuyền
Hữu thời thượng
cao các
Ca nhi minh
tố huyền
Hữu thời đói
công ẩm
Thái Bạch phù
kỷ diên.
Hữu thời dữ
luân văn,
Đông bích la
giản biên
Dĩ hĩ tao
dương cửu
Thăng đấu phi
tham thiên
Dư lão công
diệc lão
Dải tổ qui
điền viên.
Vãng lai bất
sác đắc,
Nhất ngộ tam
niên tiền,
Chấp thủ vấn
suy kiện,
Ngữ ngôn thù
vị khiên.
Công niên
thiểu dư tuế,
Dư bệnh diệt
công tiên.
Hốt văn công
phó chí,
Kinh khởi
hoàng hoàng nhiên!
Dư khởi bất
yếm thế,
Nhi công
tranh thượng tiên!
Hữu tửu vị
thuỳ mãi?
Bất mãi phi
vô tiền.
Hữu thi vị
thuỳ tả?
Bất tả phi vô
tiền
Trần Phồn
tháp bất hạ
Bá Nha cầm
diệt nhiên.
Công ký khí
dư khứ,
Dư diệt bất
công liên.
Lão nhân khốc
vô lệ,
Hà tất cưỡng
nhi liên.
Xem qua bài nguyên tác, chúng ta nhận thấy câu thứ hai
trong Văn Đàn Bảo Giám sát nghĩa hơn, song chữ "ta" không được vì thất lễ.
Huống nữa ở các đoạn dưới, từ "tôi" luôn luôn đi với
từ"bác". Vậy:
Vân thụ tâm
huyền huyền
Thì để là:
Nước mây man
mác ngậm ngùi lòng tôi.
Vừa đúng nghĩa vừa hay. Ở dưới từ
"đăng khoa" mà dịch là
"tranh khôi" cũng ổn lắm.
Câu thứ 4:"Dữ công thần tịch liên" trong Văn Đàn Bảo Giám dịch là: "Lúc sớm khuya tôi
bác cùng nhau" đúng hơn câu "Bạn
bút nghiên". Nhưng nếu đổi từ "lúc" ra từ "bạn":
"Bạn sớm khuya tôi bác cùng nhau"
thì câu thơ mới thật là hay.
Câu thứ 6:"Tao phùng như túc duyên" mà dịch là
"Cái duyên hội ngộ khác đâu duyên
trời" hay "Trong cơn gặp gỡ
biết đâu duyên trời" cũng đều chưa sướng vì từ "túc duyên" là cái căn duyên sẳn có
từ kiếp xưa và câu chữ Hán nghĩa đen là "Sự gặp gỡ của chúng ta dường như đã sẳn có duyên với nhau từ kiếp trước".
Từ "như" mà dịch là "biết đâu" hay "khác đâu" và "túc duyên" mà dịch là "duyên trời" thì nghĩa chữ đã ép mà
câu văn nghe cũng không thông. Nhưng tôi không nghe có câu nào khác hay hơn,
nên khi ngâm, tôi không ngâm rõ câu nào hết…
Câu 9, 10 thì Văn Đàn Bảo Giám rõ
nghĩa hơn, chỉ tiếc vận "xoang" xuống vận "ngon" ép quá.
Còn nếu dùng từ "cầm tôn"
(đàn rượu) thì trùng ý với câu dưới (rượu ngon cùng nhắp). Cho nên thà mất vận
còn hơn mất ý.
Câu18: "Giải tổ qui điền viên" nghĩa là
"cởi ấn từ quan mà về nhà" mà dịch là "Biết thôi thôi thế thì thôi mới là" hoặc "Thôi thôi biết thế thì thôi thế mà"
thì đều không đúng nghĩa. Cho nên đọc câu văn dịch, ít người giảng cho thông.
Câu 27, 28: "Dư khởi bất yếm thế. Nhi công tranh thượng
tiên" có nghĩa là "Tôi đây há không chán đời, mà bác lại dành lên
tiên trước" mà dịch là:
"Ai chả biết chán đời là phải
Sao vội vàng đã mãi lên tiên"
hoặc: "Vội vàng chi bác mãi lên tiên"
Đều chưa được đúng ý,
nhưng câu sau văn chỉnh hơn.
Đến những câu 31, 32, 33,
34 thì câu thơ dịch thêm ý thêm vị rất nhiều. Và những câu:
"Thư muốn viết đắn đo chẳng viết
Viết đưa ai? Ai biết mà đưa!
Giường kia ai nữa mà chờ!
Đàn kia ai nữa mà tơ tưởng đàn!"
Thì thật là hay tuyệt,
hay hơn những câu:
"Câu thơ nghĩ đắn đo chẳng viết
Viết đưa ai ai biết mà đưa.
Giường kia treo
những lửng lờ
Đàn kia muốn gảy ngẩn ngơ tiếng đàn".
Trong bài khóc Dương
Khuê, theo ý tôi thì kiệt tác là những câu:
Rượu ngon chẳng có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết,
Viết đưa ai ai biết mà đưa!
Giường kia ai nữa mà chờ,
Đàn kia ai nữa mà tơ tưởng đàn!
Mấy từ "ai nữa"
tình tứ quá, dễ thương quá!
Đến hai câu chót:
Tuổi giá hạt lệ như sương
Hơi đâu mà khóc tang thương sự đời.
Thì nghĩa không sát bằng
câu của Văn Đàn Bảo Giám song văn êm đẹp hơn, ý hàm súc hơn.
Chắc ông bạn sẽ hỏi:
"Vậy bài nào đúng"?
Xin thưa: "Bài nào
câu nào ông bạn nhận thấy hay thì câu ấy
bài ấy đúng".
Còn bản chính như sao,
thì nếu ông bạn có muốn biết chắc chắn, tôi xin đề nghị ông bạn đi tìm cụ Tam
Nguyên Yên Đỗ mà hỏi./.