25.
CẢNH VỚI THI NHÂN
Nha trang, Tiết Thu Phân năm
Canh Tý (1960)
Em
CHÚC THÀNH,
Em
cho câu: ‘Cảnh có thi nhân cảnh nổi danh’ là một câu ‘nói khoác’.
‘Nói
khoác’ là một bệnh chung của đám văn học, không nhiều thời ít chớ không ai
không. Cổ nhân đã nói ‘tôn giáo gia, văn học gia, đô thị nhất chủng khoa đại
vọng tưởng’. Nghĩa là nhà tôn giáo, nhà văn học, đều là giống nói khoác mơ hão.
Ông
tổ nói khoác trong làng thơ là LÝ THÁI BẠCH. Đây là một trong những câu nói
khoác của họ LÝ:
Hứng cam lạc bút diêu Ngũ Nhạc.
Thi thành tiếu ngạo lăng Thương Châu
Nghĩa
là:
Lúc hứng hạ bút xuống thì Ngũ Nhạc rung rinh,
Thơ làm xong cười ngạo một tiếng thì Thương Châu kinh
hãi.
Cụ
NGUYỄN DU nhà ta không vừa. Trong Kiều có câu:
Chọc trời
quấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào
biết trên đầu có ai.
HỒ
XUÂN HƯƠNG lúc còn chừa chỏm, đi trợt té, bị người ta cười, liền ngâm chữa thẹn:
Giơ tay vói
thử trời cao thấp,
Xoạc cẳng đo
xem đất vắng dài.
Và
cụ PHAN TÂY HỒ vịnh muỗi:
Nhỏ vóc nhưng
mà mang nổi núi,
To gan khi
cũng cắn càn voi.
Vân
vân...
Đó
toàn là những câu ‘nói khoác’.
Như
trên đã nói, ‘Nói khoác’ là một bệnh của văn học gia nói chung, và thi nhân nói
riêng. Bệnh ấy đối với thi nhân, không lấy gì làm nặng lắm. Nếu đem cân thì chỉ
nặng bằng đôi hoa kim cương đeo lòng thòng nơi trái tai của chị em vậy thôi.
Nhưng
câu ‘Cảnh có thi nhân cảnh nổi danh’ đâu phải là một câu ‘nói khoác’?
Kìa
đầm Đào Hoa, lầu Hoàng Hạc… Ở bên Trung Quốc đâu có phải những cảnh kỳ vĩ như
Hy Mã Lạp sơn ở Ấn Độ, Kim Tự tháp ở Ai Cập…, thế mà danh vang thiên cổ. Đó vì
đâu? Phải chăng vì có Lý Thái Bạch và Thôi Hiệu?
Thật
vậy.
Đầm ĐÀO HOA ở Kinh Xuyên, tỉnh An Huy, trước kia
không mấy người ở phương xa biết đến. Đời nhà Đường (618-907) kẻ hào sỹ đất
Kinh Xuyên là UÔNG LUÂN muốn vời LÝ THÁI BẠCH đến, bèn viết thư, có câu rằng:
‘Tiên sinh muốn ngao du’? Ở đây có ‘thập lý đào hoa’ (nghĩa đen là mười dặm hoa
đào). Tiên sinh muốn uống rượu ư? Ở đây có ‘vạn gia tửu quán’ (nghĩa đen là
muôn nhà bán rượu).
LÝ
THÁI BẠCH hớn hở đến.
UÔNG
LUÂN cáo rằng: Đào Hoa tên là đầm, chớ thật không có đào hoa. Văn gia là chủ
quán rượu họ Vạn, chớ thật không có muôn nhà bán rượu. LÝ cả cười rồi ở chơi
cùng họ UÔNG mấy hôm. Lúc ra về, UÔNG tặng danh mã 8 con, quan cẩm 10 cây và
thân hành tiễn chân xuống thuyền. LÝ cảm ý, tặng UÔNG một tuyệt rằng:
Lý Bạch thừa
chu tương dục hành
Hốt văn ngạn
thượng đạp ca thanh
Đào Hoa đàm
thuỷ thâm thiên xích
Bất cập Uông
Luân tống ngã tình.
Tản
Đà dịch:
Sắp đi Lý
Bạch ngồi thuyền,
Trên bờ chân
dậm nghe liền tiếng ca
Nước đầm
nghìn thước Đào Hoa,
Uông Luân
tình bác tiễn ta sâu nhiều.
Con
cháu họ Uông đời đời giữ bài thơ làm gia bảo. Rồi bài thơ truyền tụng, câu
chuyện họ Lý họ Uông phổ biến, đầm Đào Hoa từ ấy nổi danh.
Đến
đời nhà Thanh (1616-1885) TRƯƠNG TỊNH TRAI , một thi nhân có tiếng, đến thăm
đầm, thì đầm không còn thấy, mà lại thấy một cánh rừng rộn rã tiếng ve thu. Nếu
không có tấm biển chỉ đường có chữ “Đào Hoa” thì không thể nhận biết. TỊNH TRAI
bèn cảm tác MỘT tuyệt rằng:
Thuyền phiên
nhất diệp truỵ không lâm
Lộ chỉ Đào
Hoa thượng khả tầm.
Mạc quái thế
nhân giao nghị thiển,
Thử đàm phi
phục cựu thời thâm.
Nghĩa
là:
Ve nghiêng
chiếc lá rụng rừng thâu
Chẳng chữ ‘Đào Hoa’ dễ biết đâu!
Chớ lạ bạn
bằng tình nghĩa cạn
Đầm kia chi
dễ trở nên sâu!
Thế
là đầm Đào Hoa tuy không còn trên mặt đất, nhưng danh của Đào Hoa vẫn còn mãi
trong tâm trí khách yêu thơ.
Còn
lầu Hoàng Hạc?
Trước
khi THÔI HIỆU đề thơ thì lầu Hoàng Hạc vẫn đã có tiếng, vì tương truyền rằng
xưa kia PHÍ VĂN HUY tu thành tiên thường cỡi hạc vàng vào đó nghỉ (1). (Tên
Hoàng Hạc lầu cũng do đó mà đặt ra). Nhưng từ khi hạc vàng không còn lai nữa
thì danh của lầu cũng mờ dần, và ngoài khách văn chương, không mấy ai lui tới.
Một hôm LÝ THÁI
BẠCH tới, cầm bút toan đề thi, chợt thấy trên vách có một bài thi của THÔI
HIỆU. Thi rằng:
Tích nhân dĩ
thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không
dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ,
Phương thảo thê thê Anh Võ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
Nghĩa là:
Hạc vàng ai cỡi đi đâu,
Mà nay Hoàng Hạc đây lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn thu mây
trắng bay giờ còn bay
Hán Dương
sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Võ
xanh dày cỏ non.
Quê nhà khuất
bóng hoàng hôn,
Trên sông
khói sóng cho buồn lòng đây.
(Tản
Đà)
LÝ
bèn đề bên cạnh rằng:
Nhãn tiền hữu
cảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề
thi tại thượng đầu.
Nghĩa
là:
Có cảnh nhãn tiền không nói được
Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thơ!
Đoạn
quăng bút.
Từ
ấy bài ‘Hoàng hạc lầu’ của Thôi Hiệu nổi tiếng khắp nơi. Và tiếng bài thơ bay
đến đâu thì danh hiệu của lầu theo đến đấy. Mà danh bay chẳng những trong nước
Trung Hoa, mà đến tận các nước đồng văn như Việt Nam, Cao Ly, Nhật bản… vì thế
các danh sỹ sang sứ Trung Hoa, không mấy người không tìm đến đất Vũ Xương, tỉnh
Hồ Bắc để viếng lầu Hoàng Hạc.
Như
thế chẳng phải ‘Cảnh có thi nhân cảnh nổi danh’ là gì?
Đầm
‘Đào Hoa’ nhờ tình bạn mà ‘ có thi nhân’. Lầu Hoàng Hạc nhờ sự đi lại của tiên
mà ‘có thi nhân’. Có nhiều cảnh ‘Có thi nhân’ là nhờ giai nhân, như lầu ‘ Ông
Hoàng’ là một.
‘Lầu
Ông Hoàng’ ở Phan Thiết do Bá tước de MONTPENSIER cất. Lầu cất gần biển, phong
cảnh khả ái. Đó là một thắng cảnh tỉnh Bình Thuận, và là nơi hẹn hò của HÀN MẠC
TỬ cùng MỘNG CẦM trước đây. Mộng Cầm đi lấy chồng, Tử có làm bài PHAN THIẾT!
PHAN THIẾT! rằng:
Nhớ khi xưa
ta là chim phụng hoàng
Vỗ cánh bay
chín tầng trời cao ngất…
Bay từ Dao Lỵ
đến trời Đâu Suất,
Và lùa theo
không biết mấy là hương
Lúc đằng vân
gặp ánh sáng chận đường,
Chạm tiếng
nhạc va nhằm thơ thiên cổ.
Ta lôi đình
thấy trăng sao liền mổ:
Sao tan tành
rơi xuống vũng chiêm bao,
Trăng tan
tành rơi xuống một cù lao
Hoá đài điện đã rất nên tráng lệ
Ơ ngôi cao
ngước mắt ra ngoài bể
Phong lưu
ghê, sang trọng chẳng vừa chi.
Ta mê man như
tới chốn Phượng Trì
Ở mãi đấy
không về thiên cung nữa
Nhưng phép lạ
! Có một vì tiên nữ
Hao hao như
nường Nguyệt cõi Đào Nguyên.
Ta đắm mê
trong ánh sáng trần duyên
Và van lạy
xin cô nường kết ngãi…
Mỉa mai thay
cho phựơng hoàng si dại
Là ta đây
đương ở kiếp muôn chim !..
Trở lại Trời
tu luyện với muôn đêm,
Hớp tinh khí
lâu năm thành chánh quả.
Ta trở nên
như ngọc đàng kim mã.
Rất hào hoa
rất phong vận : Người Thơ
Ta là trai
khí huyết ước ao mơ
Người thục nữ
sanh giữa thời vô thượng.
Rồi ngây dại
nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu trang,
Lầu ÔNG HOÀNG, người thiên hạ đồn vang,
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết..
Oi trời ôi !
là Phan Thiết, Phan Thiết!
Mà tang
thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi:
Nường ấy vắng lâu rồi.
Nghĩa là chết
từ muôn trăng thế kỷ.
Trăng vàng
ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!
Ta nhìn trăng
khôn xiết ngậm ngùi trăng!
Ta vãi tung
thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc
bỗng kêu rêu thống thiết:
Hỡi Phan
Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi
chôn hận nghìn thu,
Mi là nơi sầu
muộn ngất ngư…!
Tuy
nhan đề là ‘PHAN THIẾT’ nhưng thơ thì chú trọng LẦU ÔNG HOÀNG.
Lầu
ÔNG HOÀNG trước kia đối với những người ở xa Phan Thiết, ít người biết tiếng.
Nhưng từ khi bài PHAN THIẾT ra đời thì tất cả những người yêu thơ HÀN MẠC
TỬ đều biết rằng ở Phan Thiết có Lầu ÔNG
HOÀNG, và có nhiều người từ nghìn xa tìm đến viếng nhiều người chưa biết được
náo nức mà hỏi thăm!
Thế
là lầu ÔNG HOÀNG ‘có’ H.M.T mà nổi danh. Nhưng nếu không có MỘNG CẦM ở Phan
Thiết, hỏi Hàn Mạc Tử có làm thơ giới thiệt lầu ÔNG HOÀNG? Nhất định là không, vì
Lầu Ông Hoàng đâu có tình gì với Hàn Mạc Tử?!
Vậy
bài thơ:
Cảnh có thi
nhân cảnh nổi danh
Thêm giai
nhân nữa cảnh thêm tình.
Sóng đời dẫu
cuốn dâu về bể,
Thơ với trời
cao một sắc xanh.
Là
lời nói có căn cứ, lời nói của người tin tưởng ở sự vĩnh cửu của cái ĐẸP: cái
đẹp nên thơ, cái đẹp đã thành thơ, cái đẹp của THƠ./.
_____________________________________
(1) Có chỗ chép là Đinh Linh Huy.
26. THƠ TIỄN BIỆT
Nha
Trang, Tiết Hạ Chí năm Canh Tý (1960)
Mạc
Khánh Tiên,
Đường
thi có rất nhiều thơ tiễn biệt, đủ các thể, thể nào cũng hay. Tôi không đủ sức
mà cũng không đủ tài để dịch tất cả. Để cùng nhau mua vui, tôi xin trích ra đây
mười bài tuyệt cú phổ biến nhất, và dịch qua để Tiên cùng các bạn yêu Đường Thi
mà không thạo Hán tự, biết qua ý nghĩa.
Dịch
thơ là một việc khó, mà dịch Đường Thi lại là một việc khó gấp hai gấp ba. Vì
Đường Thi gợi nhiều hơn nói, thì làm sao diễn dịch cho hết được những ‘cái gợi’
của nguyên văn?
Cho
nên Tiên và các bạn yêu Đường Thi mà không thạo Hán văn, đừng định giá trị
nguyên tác qua những bài dịch của tôi hay các dịch giả khác mà tôi mượn đem vào
đây vì thấy những bài dịch ấy không thể dịch hơn được.
Và
những bài tôi lục sau đây, tôi không sắp theo thứ tự thời gian để khỏi mắc công tra cứu, mà cũng không
sắp theo giá trị văn chương vì trăm hoa nở xuân, phân hơn kém không phải là
việc dễ. Vậy nhớ bài nào trước, chép trước. Thế thôi.
Đây
là bài ‘HOÀNG HẠC LẦU TỒNG MẠNH HẠO NHIÊN’ của LÝ THÁI BẠCH
Cố nhân tây
từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam
nguyệt hạ Dương Châu
Cô phàm viễn
ảnh bích không tận..
Duy kiến
tràng giang thiên tế lưu
Tạm
dịch:
Cố nhân giã
từ Hoàng Hạc lầu,
Lòng nương
khói hoa xuống Dương Châu.
Thuyền côi
bóng khuất trời xanh thẳm:
Mây nước vơi
vơi tiếp một màu.
Đọc
bài HOÀNG HẠC LẦU TỒNG MẠNH HẠO NHIÊN của Lý Bạch, tôi liên tưởng ngay đến bài
PHÙ DUNG LẦU TỐNG TÂN TIỆM của VƯƠNG XƯƠNG
LINH:
Hàn võ liên
giang hạ nhập Ngô,
Bình minh
tống khách Sở sơn cô!
Lạc Dương
thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến
băng tâm tại ngọc hồ.
Tạm
dịch:
Sông Ngô cập bến
lạnh đêm mưa,
Sáng tiễn
người đi núi Sở trơ
Bằng hữu Lạc
Dương như hỏi đến,
Băng trong hồ
ngọc tấm lòng xưa.
Bạn
thân của VƯƠNG XƯƠNG LINH là CAO THÍCH cũng có một bài tiễn biệt được thời nhân hoan
nghênh như bài của Vương. Đó là bài BIỆT ĐỔNG ĐẠI:
Thập lý hoàng
vân bạch nhật huân,
Bắc phong
xuân nhạn tuyết phân phân.
Mạc sầu tiền
lộ vô tri kỷ:
Thiên hạ hà
nhân bất thức quân.
Tạm
dịch:
Mười dặm mây
vàng nắng nhạt soi,
Hơi mây thổi
nhạn tuyết tơi bời.
Chớ sầu đường
trước không tri kỷ:
Thiên hạ quen
anh chẳng hiếm người.
Bài
này ý trái với bài TỐNG NGUYÊN NHỊ SỨ TÂY AN của VƯƠNG DUY:
Vị thành
triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá
thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân
cánh tận nhất bôi tửu:
Tây xuất
Dương quan vô cố nhân.
Tạm
dịch:
Mưa mai lấp
bụi Vị thành,
Xanh xanh
quán khách mấy nhành liễu tươi.
Khuyên ai cạn
chén ai mời,
Dương quan ra
đó không người quen thân.
Hai
bên ý tuy khác nhau, nhưng thì vẫn một, vẫn một niềm quyến luyến lúc ra đi, một
niềm thương xót lúc chia ly. Bảo rằng ‘đừng sầu’ vì đã sầu lắm vậy, sầu vì ‘vô
tri kỷ’, cũng như vì ‘vô cố nhân’.
Bài
của VƯƠNG DUY lại phảng phất bài TỐNG LÝ THỊ LANG PHÓ THƯỜNG CHÂU của GIẢ CHÍ:
Tuyết tình
vân tán bắc phong hàn,
Sở thuỷ Ngô
sơn đạo lộ nan !
Kim nhật tống
quân tu tận tuý:
Minh triêu
tương ức lộ man man.
Tạm
dịch:
Tuyết ngừng
gió lạnh mây tan,
Non Ngô bến
Sở gian nan dặm dài.
Đưa nhau nay
chẳng say vùi
Nữa mai xa
cách ngậm ngùi ích chi.
Những
bài trên đều tả tình kẻ ở người đi. Tiễn nhau để mỗi người đi mỗi ngả, thì có
bài HOÀI THƯỢNG BIỆT CỐ NHÂN của TRỊNH CỐC:
Dương Tử
giang đâu dương liễu xuân,
Dương ba sầu
sát độ giang nhân.
Sổ thanh
phong địch ly đình vãn,
Quân hướng
Tiêu Tương ngã hướng Tần.
Tạm
dịch:
Bờ Dương tứ sắc dương tươi,
Hoa dương buồn giết dạ người sang sông.
Chia ly tiếng địch đình phong
Tiêu Tương nẻo đó, đây lòng Tần giang.
Thật
là buồn. Nhưng đi để mà đến một nơi nhất định, thì dù buồn cũng không buồn bằng
người ra đi để không biết bao giờ đến, không biết bao giờ hết đi! Như nỗi buồn
trong bài LÂM GIANG TỐNG HẠ TRIÊM của BẠCH CƯ DỊ:
Bi quân lão
khứ lệ triêm cân,
Thất thập vô
gia vạn lý thân.
Sầu kiến chu
hành phong hựu khỉ
Bạch đầu lãng
lý bạch đầu nhân!
TẢN
ĐÀ tiên sinh dịch rằng:
Muôn dặm
thương anh lệ biệt sầu,
Bảy mươi tuổi
tác cửa nhà đâu!
Buồn theo
ngọn gió theo buồm nổi
Sóng bạc đầu
quanh khách bạc đầu!
Lòng
buồn ấy thật không kém lòng người tha phương tiễn người đi tha phương, như nỗi
buồn của VI TRANG trong bài ĐÔNG DƯƠNG TỬU GIA TẶNG BIỆT:
Thiên nha
phương thán dị hương thân,
Hựu hướng
thiên nha biệt cố nhân!
Minh nhật ngũ
canh cô điếm nguyệt,
Tuý tinh hà
xứ các triêm câu!
Tạm
dịch:
Thương thân
vò võ phương trời,
Phương trời
nay lại tiễn người ra đi!
Ngày mai quán
lẻ vầng khuya,
Giấc say chợt
tỉnh đầm đìa giọt châu!
Trên
đây là những bài thơ tiễn người ra đi. Tiễn người trở về thì có bài TỐNG NHÂN
HOÀNG KINH của SẦM THAM:
Tất mã tây
tùng thiên ngoại qui,
Dương tiên
chỉ cọng điểu tranh phi.
Tống quân cửu
nguyệt Giao Hà bắc,
Tuyết lý đề
thi lệ mãn y.
Tạm
dịch:
Ngựa về,
khuất nẻo trời tây,
Tay roi chắp
cánh chim bay lẹ làng.
Sông Giao
tháng chín tiễn chàng,
Đề thơ trong
tuyết lệ tràn thấm bâu.
Và
bài TỐNG LƯƠNG LỤC của TRƯƠNG DUYỆT:
Ba Lăng nhất
vọng Động Đình thu,
Nhật kiến cô
phong thuỷ thượng phù.
Văn đạo thần
tiên bất khả tiếp !
Tâm tuỳ hồ thuỷ cọng du du.
Người xưa đã có dịch bài này.
Vì được đọc đã lâu ngày quá nên tôi chỉ nhớ chừng như thế này, không chắc là
đúng nguyên bản:
Ba Lăng trông suốt Động Đình
Hòn lao chới với một mình trên không.
Non tiên cách trở dặm hồng,
Nước hồ cuộn cuộn tấm lòng nương theo.
Cũng thì đưa người ra về,
nhưng SẦM THAM tiễn người về Kinh Kỳ, một nơi phồn hoa đô hội, TRƯƠNG DUYỆT
tiễn người về ẩn nơi Động Đình, mây nước cách trần gian. Cho nên họ SẦM mừng
cho bạn được về mà thương cho mình không tới được, chỉ nghe người ta nói là nơi
thần tiên ở nhưng trước mắt mình thì là một hòn non côi ở giữa khoang trời nước
bao la, cho nên trong nỗi buồn ly biệt có phảng phất niềm lo âu. Tình trong hai
bài đều thiết tha mà bài của TRƯƠNG DUYỆT thật là thâm viễn.
Nhưng cũng như hầu hết các
bài trên đây, bài của TRƯƠNG DUYỆT có tính cách riêng biệt, không thể đem dùng
trong bất cứ trường hợp tiễn biệt nào
cũng được.
Có tính cách chung, thích hợp
cho đại đa số là bài TỐNG NGUYÊN NHỊ của VƯƠNG DUY.
Bài này đã thành một bài ca
tống biệt phổ thông, gọi là DƯƠNG QUAN TAM ĐIỆP. Chữ DƯƠNG QUAN lấy trong câu ‘Tây xuất Dương
Quan vô cố nhân’. Còn gọi là TAM ĐIỆP là vì khi ca, câu thứ nhất đọc một lần,
còn ba câu sau mỗi câu đọc hai lần. Đến đời nhà Nguyên, người ta lấy bài đó biến
chế theo điệu Bắc khúc và gọi là DƯƠNG QUAN TAM ĐIỆP KHÚC, rằng:
Vi
thành triêu vũ ấp khinh trần
Cánh
sái biến KHÁCH XÁ THANH THANH, lộng nhu ngưng thiên lũ,
Cánh
sái biến KHÁCH XÁ THANH THANH, lộng nhu ngưng thuý sắc,
Cánh
sái biến KHÁCH XÁ THANH THANH, lộng nhu ngưng LIỄU SÁC TÂN.
Hưu
phiền não, KHUYẾN QUÂN CÁNH TẬN NHẤT BÔI TỬU, nhân sinh hội thiểu, phú quí công
danh hữu định phận.
Hưu
phiền não, KHUYẾN QUÂN CÁNH TẬN NHẤT BÔI TỬU,
Cựu
du như mộng, chỉ khủng phạ TÂY XUẤT DƯƠNG QUAN, nhãn tiền
vô cố nhân!
Hưu
phiền não, KHUYẾN QUÂN CÁNH TẬN NHẤT BÔI TỬU
Chỉ khủng phạ TÂY XUẤT DƯƠNG QUAN VÔ CỐ NHÂN.
Nghĩa là:
Mưa mai lấp bụi Vị thành
Lại
rảy khắp quán khách xanh xanh, ngàn dây tơ mềm bay lộn.
Lại
rảy khắp quán khách xanh xanh, ngưng màu thuý dợn dợn.
Lại
rảy khắp quán khách xanh xanh, lộng mấy nhành liễu tươi.
Đừng
phiền não, khuyên ai cạn chén ai mời,
Cuộc
đời như mộng! Chỉ sợ Dương Quan ra đó, trước mắt
Không
người quen thân.
Đừng
phiền não, khuyên ai cạn chén ai mời,
Chỉ
sợ Dương Quan ra đó, trước mắt không người quen thân.
Còn các bài khác vì có tánh
cách riêng biệt nên không được phổ biến. Nhưng không phải vì thế mà giá trị - đối với khách văn chương - sút kém bài của Vương Duy./.