27. SỢ VỢ
Nha Trang, Hạ tuần tháng 3 năm Đinh Tỵ (5-1977)
HƯƠNG KHANH,
Không phải tôi không quí những câu ngẫu đắc. Tôi không
đem chúng vào những tập đã xuất bản hay chưa xuất bản nhưng đã hoàn tất, là vì
chúng mới thành cú chớ chưa hợp thành chương, nhiều khi ngâm để mua vui, không
ghi chép lại, lâu ngày quên lửng, khi có người nhắc mới nhớ.
- Không ghen sao phải đàn bà
Có từng sợ vợ mới là đàn ông.
- Ai ơi chớ sợ trời hơn vợ
Trời ở còn xa vợ ở gần.
Quả thật của tôi. Và chính do những câu ấy mà chị em
thấy tôi không để râu tưởng tôi là hậu thân của Đường ngự sử đại phu BÙI ĐÀM.
Tôi không hề phật ý. Vì nghĩ rằng:
Sợ vợ là tánh trời sanh
Tiếng tăm sợ vợ sử xanh còn truyền.
Để
chứng minh lời nói của tôi, trước hết tôi kể cho Hương Khanh nghe chuyện BÙI
ĐÀM, mà chị em đã tặng cho tôi.
BÙI ĐÀM làm quan Giám nghi Đại Phu hoặc giám sát Ngự sử
triều Đường Trương Tôn (705-710), nổi tiếng sợ vợ. Ngự sử thường nói cùng bạn.
-
Vợ có ba điêù
đáng sợ: Lúc còn trẻ trông như Phật sống hiện thân. Đó là một điều đáng sợ. Khi
con cái đầy đàn, thì trông như ba bị chín quai. Đó là hai điều đáng sợ. Đến lúc
về già, son phai phấn lợt, mặt xanh như chàm đổ, hoặc như lọ nồi, trông rõ là
loài yêu quái, đặc vẻ cú diều. Đó là ba điều đáng sợ.
Câu nói được truyền tụng, dân thành Tràng An mới tặng
cho Bùi Đại phu biệt hiệu là ‘Bùi Phạ Bà’.
Quan Ngự sử sợ vợ, đấng chí tôn sợ vợ cũng không thua.
Nói ‘không thua’ là nói cho có ‘tôn ti’, chớ cổ kim
chưa có người nào sợ vợ một cách ‘chí tôn’ như Đường Trung Tôn.
TRUNG TÔN, huý là Lý Triết, do Cao Tôn và Võ Tắc
Thiên, tức Võ Hậu, sinh ra. Khi Võ Hậu nắm quyền, Lý Triết bị đày ra Phòng Châu
với tước Lư Lăng Vương. Trong lúc bị đày, bên mình chỉ có người vợ là VI THỊ,
con gái quan Thú sử Dự Châu Vi Huyền Trinh, săn sóc an ủi. Sau khi Võ Hậu bị
truất phế, Lư Lăng Vương được rước về làm vua. Nhớ những ngày cùng nhau chung
hoạn nạn, Trung Tôn cho Vi Hậu dự triều chính và giao cho nhiều quyền hành.
Vi Hậu bèn nắm được cái thế của Võ hậu ngày xưa.
Và cũng như Võ Hậu, Vi Hậu dâm loạn vô biên. Trung Tôn
tánh nhu nhược lại sợ vợ, nên mặc dù biết rõ mọi bí mật của Vi Hậu, vẫn mặt lấp
tai ngơ. Triều thần thấy vua không lưu tâm, thì không một ai dám can thiệp. Vì
vậy Vi Hậu mỗi ngày một thêm lộng hành. Những hành động xấu xa của Vi Hậu bay
khắp dân gian. Và cái tên ‘Vi Hoàng Hậu’ trở thành một cái tên tượng trưng cho
sự dâm bôn vô sỉ của hạng đàn bà quyền quý, như tên Võ Hậu ngày xưa.
Có một chuyện gần như chuyện tiếu lâm.
Một đêm Nguyên Tiêu nọ, trong cung mở dạ hội lớn, tất
cả các đình thần đều đến dự. Các tao ông nhã khách đều đua nhau làm thơ hoặc
làm ca để cho nữ nhạc ca công múa hát góp vui. Thời bấy giờ có điệụ hát gọi là
HỒI BA rất thịnh hành. Trong cung lại có tên kép hát tên là Tang Phụng, chuyên
làm hề để chọc cười vua và Hoàng hậu. Đương bữa tiệc, Tang Phụng đứng ra múa và
hát 1 bài theo điệu Hồi Ba. Bài hát khởi đầu bằng những câu:
Hồi Ba nghĩ,
như khảo lạo
Phạ bà khước
dã đại hảo
Ngoại đầu thả
hữu Bùi Đàm
Nội điện vô
quá Lý lão.
Xin dịch ra vè cho vui:
Này điệu hồi
ba
Như là cái rọ
Trên đời sợ
vợ
Là việc tốt
lành
Bùi Đàm sợ vợ
lừng danh
So cùng lão
Lý
Bùi đành chịu
thua.
Mọi người đều cất tiếng cười vang. Vi Hậu thích ý, lập
tức ra lệnh ban thưởng cho Tang Phụng. Nhà vua có ý thẹn, nhưng cười giả lả cho
qua.
Dạ yến tàn thì câu chuyện ‘Phạ bà đại hảo’ theo tân
khách bay đi khắp nơi. Để đối chọi với mỹ hiệu ‘Bùi Phạ Bà’ của quan Ngự sử đại
phu, người ta đặt cho Trung Tôn mỹ danh là ‘Đế Phạ Hậu‘.
Chúng ta có thể nói là ‘vua nào tôi nấy’, hoặc ‘Tôi nào vua nấy’.
Nếu theo sách vở thì phải nói ‘ Có vua ấy phải có tôi
ấy’. ‘Có tôi ấy phải có vua ấy’. Vầy thôi!
Nhưng không phải chỉ đời Đường, đời mà thơ nổi danh
nhân gian tuyệt phẩm, (1) mới có những đấng ‘Phạ Bà’. Đời nào cũng có. Song nổi
danh thiên cổ, như Đường Trung Tôn, Bùi Đàm, chỉ có Trần Quí Thường đời Tống.
TRẦN QUÍ THƯỜNG là một ẩn sỹ, bạn thân của Tô Đông Pha
và thường cùng Tô công nói về đạo Phật, đạo Lão. Bà vợ Quí Thường họ Liễu tánh
hay ghen. Quí Thường rất kiêng nể. Tô Đông Pha có thơ ghẹo bạn:
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Nghĩa là:
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống
Gậy vớt tay run hết cả hồn.
Sở dĩ Tô Đông Pha dùng chữ Hà Đông để ám chỉ họ Liễu
là vì Đỗ Phủ có câu “Hà Đông nữ nhi nhân tánh Liễu”, nghĩa là cô gái Hà Đông
người họ Liễu, và dùng chữ sư tử vì trong kinh Phật có câu dùng chữ ‘sư tử
hống’ để mô tả tiếng có uy lực làm tỉnh ngộ lòng người si mê. Đó là một cách
chơi chữ, cắm râu ông nọ vào cằm bà kia, tạo thành một hình ảnh ngộ nghĩnh, ngộ
nghĩnh nhưng rất thực rất đúng. Bởi không có gì dễ sợ bằng tướng mạo và tiếng
gầm hét của người đàn bà trong lúc máu ghen bùng sôi. (2)
Do đó thành ngữ ‘sư tử Hà Đông’ thành danh từ chỉ
người đàn bà hay ghen và hung dữ:
Hầu hạ đã cam phần cát luỹ
Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông.
(Trần Tế
Xương)
Nhưng một học giả cận đại của Trung Hoa là Lâm Ngữ
Đường và một học giả hiện đại của Việt Nam là Nguyễn Hiến Lê lại cho rằng bảo
Quí Thường sợ vợ là oan, vì Trần là một ẩn sỹ có tiết tháo, và gia đình rất hoà
thuận. Tô Đông Pha nói ‘sư tử hống’ có lẽ vì tiếng nói bà họ Liễu có giọng oang
oang, chớ không phải ghen.
Thiết tưởng không cần biện minh. Bởi ghen không phải
xấu:
Thân nhàn tiệm thức vô quan hảo
Lão kiện phương tri đố phụ hiền
Nghĩa là: Thân được thong thả, dần dần thấy rõ không
làm quan là điều tốt. Đến lúc già mà được mạnh khoẻ mới hay rằng bà vợ ghen là
vợ hiền.
Và Tản Đà Tiên sinh nói:
-
Ở đời nếu không
phải sợ ai, thời là nhất,. Nếu còn phải có sợ thời sợ vợ là hơn.
Lời nói thật chí lý và nên thơ. Làm trai mới lớn lên,
tưởng nên nhớ lấy. Làm gái sắp có gia đình càng nên ghi lấy. Mà người mới bước
vào làng thơ lại phải thuộc lòng, vì là lời nói của một vị tiền bồi giàu kinh
nghiệm.
_____________________________________________________
(1)
Đường thi, Tấn
tự, Hán văn chương, nhân giang tuyệt phẩm. Nghĩa là: Thơ đời Đường, chữ viết
đời Tấn, văn chương đời Hán, đó là những nghệ phẩm tuyệt diệu trong thế gian.
(2)
Phật quốc thiền
sư có câu:
Sư tử hống
thời phương thảo lục
Tượng vương
hồi xứ lạc hoa hồng
Nghĩa là:
Lúc sư tử
rống, cỏ thơm trổ biếc
Vui chúa về
hoa rụng cánh hồng
Cùng một thành ngữ “Sư tử hống” mà ý nghĩa trong câu
của Đông Pha khác hẳn câu của thiền sư.
28. MỘNG XUÂN KHÔNG DÀI
Nha Trang, hạ tuần tháng 3 năm Đinh Tỵ (5-1977)
Phương Dung,
Tôi không thể chép trọn bài VÔ ĐỀ, cũng không thể nói
rõ người trong thơ, vì chưa phải lúc. Để đáp lại thịnh tình của Phương Dung tôi
xin nói sơ điển tích dùng trong câu:
Nỡ lòng học Tống Hoa Dương
Ngâm câu Lãng Uyển Nữ Tường xót xa.
Câu ấy thoát thai từ mối tình giữa Tống Hoa Dương và
Lý Thương An, thời Văn Đường (823-907).
TỐNG HOA DƯƠNG là một nữ đạo sỹ.
Đời Đường có những nữ đạo sỹ, bề ngoài lấy danh nghĩa
là xuất gia đi tu hành để thụ hưởng ân huệ của vua hoặc của các nhà quyền quí,
nhưng sự thực hầu hết là những người đàn bà phóng túng đắm mình vào những cuộc
sống phù phiếm, trăng hoa.
Tống Hoa Dương là một trong những nữ đạo sỹ đó. Nhưng
nàng là một giai nhân tuyệt sắc, khắp kinh thành Tràng An không ai không ca
tụng sắc đẹp của nàng. Nàng có một ngôi đền xây trên núi Tràng An, thường
thường cứ sớm đi tối về. Đời phong lưu ít có chi em sánh kịp.
LÝ THƯƠNG ẨN, tự Nghĩa Sơn, hiệu Ngọc Khê, quê ở Hoài
Châu, Tỉnh Hà Nam. Thi tài quán thế. Đậu tiến sĩ đời Đường Văn Tông (827-840).
Lúc Lý ra Trường An thi tấn sỹ thì gặp Tống Hoa Dương.
Hai bên thường hội kiến trong những cảnh sinh hoạt xa hoa của giới phong lưu
đài các. Bên tài tử, bên giai nhân, không dễ gì không tương thân tương ái. Mối
tình mỗi ngày mỗi thêm thắm thiết. Lý làm nhiều thơ khen dung nhan của Tống.
Đại khái như:
Luận trích thiên niên biệt Đế thần
Chí kim do thức nhị chu nhân
Nghĩa là:
Nghìn năm cách biệt cõi Trời
Ngày nay gặp gỡ lại người ngày
xưa
Tống thường rủ Lý lên đền chung vui. Thanh u mà không
nhã, thị tứ lẫn lâm tuyền. Bên cảnh bên tình, tiên trong cõi tục. Thơ lý do đó
đã diễm lệ càng thêm diễm lệ. Thơ lúc bấy giờ ảnh cũng như tình, đều là tình
cảnh trước mắt và đều làm ra vi Tống Hoa Dương. Như:
BÍCH THÀNH
Bích thành
thập nhị khúc lan can
Tê tịch trần
ai ngọc tịch hàng
Lãng Uyển hữu
thư đa phụ hạc
Nữ Tường vô
thọ bất thê loan
Tinh trầm hải
để đương song kiến
Vũ quá hà
nguyên cách tọa khan
Nhược thị
hiểu châu minh hựu định
Nhất sinh
trường đới thuỷ tinh bàn.
Dịch phỏng:
Bích thành
đoanh lộn lan can
Tề nhìn trong
bấy ngọc càng ấm sao!
Tờ thơ Lãng
Uyển hạc trao
Nữ Tường
không một cây nào không loan
Bên sông
trông xuống Tràng An
Lòng lanh đáy
biển muôn ngàn sao rơi
Cơn mưa qua
giải sông Trời
Màu ngân tuôn
thấu chỗ ngồi láng lai
Bồng doanh ví
sẵn duyên hài
Gìn mâm châu
sáng bên đài thuỷ tinh.
Đó là một trong những bài vịnh cảnh thần tiên và thú
thần tiên nơi đền Tống Hoa Dương.
Bước chân vào đường tình, thời kỳ này là thời kỳ tươi
đẹp nhất vui sướng nhất của Lý Nghĩa Sơn. Thi nhân cho là cuộc đời không còn có
gì đáng buồn đáng hận.
Nhưng mộng xuân không dài.
Đời Đường, kỳ thi tiến sỹ mới là bước đường xuất thân
của kẻ sỹ. Muốn làm quan, thi đậu rồi, kẻ sỹ còn phải qua kỳ khảo hạch của bộ
Lại. Lý tạm biệt Tống để đi dự khảo thí. Thi hỏng. Hỏng kỳ này còn kỳ khác, ý
không chút bận lòng. Song khi trở lại cùng người yêu thì lòng lại bị một vết
thương xối máu: Tống Hoa Dương đã đem tình yêu trao cho kẻ khác, mà kẻ khác ấy
lại không ai khác hơn là Đạo Sỹ Vĩnh, một người bạn của Lý và chính Lý đã giới
thiệu cùng hoa Dương! Để được tự do sống cùng người mới, Hoa Dương tìm cách
đuổi Lý ra khỏi đền. Lý ôm mối hận tình mà xuống núi.
Trong non trầm nhả khói đôi
Ngoài non
xuống bước lẻ loi dặm trường…
Sau đó Lý trải qua nhiều cảnh ngộ, thương tâm có, đắc
ý có, trên đường công danh cũng như trên đường tình ái. Cuối cùng chết trong
cảnh nghèo nàn quạnh quẽ và để lại cho nghìn muôn sau một pho tình sử đầy hương
và cũng đầy lệ, cùng những vần thơ tuyệt tác mà phần nhiều đều dùng phép tượng
trưng vừa u ẩn vừa diễm kiều:
Thử hoa thử diệp trường tương ảnh
Thuý giảm hồng suy sầu sát nhân
Nghĩa là: Màu
hoa sắc lá chiếu nhau
Hồng phai
thuý nhạt thương đau giết người
Xuân tàn đáo tử ti phương tận
Lạp chúc thành khô lệ thuỷ càng
Nghĩa là: Tầm xuân đến chết tơ còn vướng
Ngọn sáp thành tro lệ mới khô
Đời thi nhân!