31. TÌNH NHỚ THƯƠNG
Nha Trang tiết Lập Xuân năm Mậu Tuất (1958)
Chị Khánh Vân,
Quả như lời chị nói, hai câu thơ ấy không phải hai câu
thơ rời rẽ:
Làng tôi
không nói hết làng
Có người cứ
mỗi chiều vàng nhớ tôi
Là một câu trong bài Nhớ Làng của Thanh Lang
Còn câu:
Non Hương ẩn
bóng sương mờ
Chiều chiều
tựa cửa đợi chờ ai đây?
Ở trong bài Nhớ
Người Ra Đi của Chức Thành.
Chức Thành và Thanh Lang đối với tôi là chỗ quen thân.
Và hai bài Nhớ Làng và Nhớ Người Ra Đi tôi đã được xem và còn nhớ được trọn.
Đây bài Nhớ Làng
của Thanh Lang:
Mưa đưa
thương nhớ về làng
Mưa làm xa
vắng dặm đàng bến sông
Chiều nay mở
cửa ra trông:
Thấy làng
đâu? Chỉ thấy lòng mà thôi!
Mưa ơi thương
nhớ bời bời,
Bời bời
thương nhớ! Mưa ơi khuất làng!
Ở đây nắng
mới võ vàng,
Dừa cao lỏng
khỏng cành xoan ngoằn nghèo
Con đường thì
ngút cheo leo,
Mình đi chỉ
bóng cùng theo với mình.
Làng tôi gió
rộng thênh thênh
Mưa sa nhè
nhẹ, trăng lên dịu dàng
Làng tôi,
không nói hết làng..
Có người cứ
mỗi chiều vàng nhớ tôi.
Và đây, bài Nhớ
Người Ra Đi của Chức Thành:
Tháng hai năm
ngoái nơi nầy,
Ngày mười hai
ấy là ngày biệt ly.
Tiếng gà giục
giã ra đi
Bước đường cỏ
lạnh, hàng mi lệ sầu!
Sụt sùi dặm
cát cồn lau,
Ánh bình minh
phút trở màu hoàng hôn!
Nhớ thương
mưa gió dập dồn
Tháng ngày
mặt nước sông Côn thẩn thờ.
Non Hương ẩn
bóng sương mờ
Chiều chiều
tựa cửa đợi chờ ai đây?!
Hai bên đều mượn văn chương để gởi lòng thương nhớ.
Thanh Lang thì từ nơi xa gởi lòng về làng. Chức Thành thì từ làng gởi lòng ra
nơi xa.
- Dường như có mối liên hệ giữa đôi bên?
- Thưa chị không. Hai bài thơ ra đời cách nhau gần 20
năm và hai tác giả chưa từng quen biết nhau, mặc dù đều là người Bình Định và
có tôi ở trung gian.
- Tuy không có mối liên hệ nhưng vẫn có chỗ tương đồng:
Nhớ Làng và Nhớ Người Ra
Đi là hai bức tranh Tình, mà trong Tình có Cảnh.
Nhưng ở đây, tả cảnh không phải vì cảnh, mà tả cảnh
chỉ để diễn tả tâm tình cho thêm đượm nét. Cảnh trong thơ đã theo cái nhìn chủ
quan của tác giả mà thay đổi hình thái, chớ không còn giữ nguyên vẹn bản thể
trong thực tại khách quan. Nắng Mới, Dừa, Xoan trong thơ Thanh Loan, cũng như Cồn
Lau, Dặm Cát, Sông Côn, Non hương… trong thơ Chức Thành là những cảnh vật của
thiên nhiên, cảnh vật có thật trong thực tế. Nhưng sắc "võ vàng" của
nắng, nét "lỏng khỏng" của dừa, vẻ "ngoằn nghòeo" của soan…
cũng như dáng"sụt sùi" của cồn lau, dặm cát, mặt "thẫn thờ"
của con sông Côn, bóng "ẩn che" của dãy núi Hương... lại là sắc thái
của tâm hồn trùm lên cảnh vật, khiến cảnh vật biến theo sắc thái tâm hồn. Thành
thử mỗi nét tả trong thơ là một dáng dấp riêng gợi một chút tình riêng của tác
giả.
Đó là chỗ tương đồng.
Và đây là chỗ tương dị:
Thanh Lang nhân xúc cảnh mà sinh tình, rồi vì tình mà
Nhớ cảnh.
Tình của Thanh Lang là một mối tình hiền hiền dịu dịu,
toả một nỗi buồn man mác bâng khuâng.
Và cảnh trong Nhớ
Làng là những nét đơn sơ rút trong cảnh phức tạp rộng rãi: cây dừa, cành
soan, con đường... là một vài cạnh khía tách nơi hiện tượng bao la: chiều rộng
của gió, sức nhẹ của mưa, vẻ dịu của trăng... Những nét ấy, những cạnh khía ấy
thật là độc đáo, bởi được chọn lọc, lựa lọc. Nhưng không phải chọn lựa theo con
mắt của nhà thẩm mỹ mà chọn lựa theo trạng thái của tâm tư. Vì Thanh Lang chỉ
chọn lựa trong cảnh vật "ở đây" và ở "làng tôi" những cái
gì thích hợp để làm Khung lồng Tình, lồng "bức tranh tình thương
nhớ".
Mà trước khi lấy cảnh làm khung lòng tình, Thanh Lang
lấy cảnh lồng cảnh. Cảnh "ở đây" đã làm nổi bật "bức tranh
thương nhớ" trước khi mưa đưa về làng.
Mưa đưa thương nhớ về làng.
Nhân đây thử hỏi: Có phải thật vì làng mà Thanh Lang
đem lòng thương nhớ?
Bảo là "không phải hẳn" thì không thật đúng. Nhưng thử lấy lòng mà xét: Nếu
không có "người cứ mỗi chiều vàng
nhớ tôi" ở trong làng, thì gió làng có còn thấy rộng, mưa làng có còn
thấy nhẹ, trăng làng có còn thấy dịu... nữa chăng?
"Thiếu một
người là thiếu tất cả". Lòng xưa nay ai có khác ai!
Mà dù gió làng vẫn còn cứ rộng, mưa làng vẫn còn cứ
nhẹ, trăng làng vẫn còn cứ dịu, mà thiếu "bức tranh thương nhớ" do "người nhớ tôi" làm động cơ sáng tạo, thì những cảnh gió thênh
thênh, mưa nhè nhẹ, trăng dìu dịu kia chỉ còn là những nét chạm trổ sơn thếp
trên chiếc khung trống: "Làng tôi"
Tranh không có thì ai treo khung trống nữa mà chi?
Những nét chạm trổ sơn thếp kia, dù đẹp đẽ đến đâu, mà
lâu ngày bụi đóng lu mờ, thì còn ai lưu tâm để mà thương mà nhớ?
Cho nên: "Mưa
đưa thương nhớ về làng"
Chỉ vì: "Có
người cứ mỗi chiều vàng nhớ tôi"
Bởi "có
người nhớ tôi" mà có "tranh
thương nhớ". Có "tranh
thương nhớ" nên có "khung trổ gió, chạm trăng". Bức tranh
Tình ấy, chiếc khung cảnh ấy, đường nét ăn nhịp, màu sắc hào hiệp, lồng vào
nhau thật khắng khít nhịp nhàng, trông đẹp lòng khoái mắt.
Nhưng còn nói Tranh và Khung, tức còn phân biệt Tình
với Cảnh.
Mà còn phân biệt Tình với Cảnh, là vì trong Nhớ Làng của Thanh lang, Tình và Cảnh là
hai chớ không phải là một.
Tình với cảnh là một, là tình cảnh trong Nhớ Người Ra Đi của Chức Thành.
Cảnh trong Nhớ
Người Ra Đi là cảnh nguyên khối: dặm cát, cồn lau, con sông, dãy núi.
Tình của Chức Thành là một khối tình thâm thiết ngậm
một niềm nhớ thương lặng lẽ nhưng chứa .
Nỗi nhớ thương thấm ngập tâm tư và lan tràn trong cảnh
vật. Tình hoà với cảnh, cảnh hợp cùng tình, ôm ấp lấy nhau, quấn quít lấy nhau,
chan hoà với nhau, không thể rời không thể tách.
Đọc những câu, như câu:
Sụt sùi dặm
cát cồn lau,
Ánh bình minh
phút trở màu hoàng hôn.
Thì ai có thể phân biệt là mối cảm xúc của ai? Của
Người chăng? Thì lòng người đã hoà hợp cùng cảnh vật. Của Cảnh chăng? Thì cảnh
vật đã thông cảm với lòng người. Tâm và vật đã hoà hợp lẫn nhau, thông cảm với
nhau, nên tình xúc thì cảnh động, như nước chuyển mà sóng xao.
Sóng với nước vốn không hai, thì ở đây tình với cảnh
là một.
- Mà tình cảnh ở đây là tình cảnh của người đi hay kẻ
ở? Tình cảnh trong lúc biệt ly, rồi mỗi lần nhớ thương thì hiện ra trước mắt?
- Ở đây lòng người đi là lòng kẻ ở, lòng kẻ ở là lòng
người đi. Tình cảnh không phân, không gian không cách, thời gian không đoạn…
Các câu khác trong bài thơ, đại khái cũng thế.
Và trong bài thơ câu:
Sụt sùi dặm
cát cồn lau
Ánh bình minh
phút trở màu hoàng hôn.
Là một đợt sóng lòng cao nhất. Bốn câu đầu là những
lượn sóng dồn tới để đưa đợt sóng "sụt sùi" lên cao. Bốn câu sau là
những lượn sóng chài ra để xô mình vào bờ mà hai từ "ai đây" là tiếng
sóng vỡ.
"Chiều
chiều tựa cửa đợi chờ ai đây?"
Đã biệt ly mà còn chờ đợi!
Người đi không hẹn ngày trở lại, mà ngày tháng vẫn còn
tựa cửa đợi chờ!
Vậy lòng đợi chờ ai đây hỡi lòng!
"Ai đây", một tiếng kêu não nùng, nửa như
than, nửa như trách! Than cho mình chăng? Than cho người ra đi chăng? Trách
người ra đi sao một đi không trở lại, hay trách lòng mình đã biết người không
trở lại mà vẫn tựa cửa chờ mong?
Chân lý của con tim dễ ai mà hiểu thấu!
Bài Nhớ Người Ra
Đi chứa đựng một mối buồn thương thấm thía! Càng đọc càng thấy buồn, và mổi
lúc mối buồn càng lắng xuống, mỗi chìm sâu vào tâm hồn.
Trái lại mối buồn thương trong Nhớ Làng rất nhẹ nhàng êm ái, nó chỉ phớt qua lòng người đọc như
một ngọn gió thu thoảng qua ngàn hoa lau.
Và thưa chị, đúng như lời chị nói, hai bài thơ cùng
một chất - chất buồn- nhưng đậm lạt khác nhau, và mỗi bài thơ có một màu sắc riêng,
mọt hương vị riêng.
Còn chị hỏi bài nào hơn bài nào, thì xin thưa rằng tục
ngữ có câu:
Hoa huệ, hoa
lan, hoa lài, hoa lý,
Anh yêu hoa
nào hoa ấy là xinh.
Thôi,
chuyện thơ còn dài, xin tạm dừng tay. Chào chị./.
32. LIÊN TÂM
Nha Trang ngày Phật Đản năm Mậu Tuất (01/6/1958)
Anh Hương Sơn
Liên Tâm là người Núi Ngự Sông Hương.
Tôi gặp tại Nha Trang,mùa đông năm Mậu Dần (1938)
trong cuộc họp bạn văn nghệ do câu lạc bộ Tự Lập (cercle d'Etude ) tổ chức.
Tuy là một phụ nữ tân học, tuổi trẻ, Liêm Tâm lại ưa
chuộng Đường thi và chuyên làm thơ Đường luật. Văn chương thanh nhã. Có nhiều
câu, các bà cựu học Khánh Hoà khen là "không kém tài trai", như:
Việc nước
muốn làm thương phận gái
Vần thơ toan hoạ thẹn tài trai
Bút mực theo
dòi Tô Tiểu Muội
Kiếm cung khó học Triệu Bà Vương.
Lăm le muốn mượn màu son phấn
Tô điểm cho tươi mặt nước
non.
Lúc bấy giờ phong trào
thơ Mới đang lên cao. Các nhà thơ Cũ, một số bị lôi cuốn, một số đứng dậy chống
đối. Những cuộc tranh luận thường xảy ra kịch liệt. Vấn đề thơ Cũ, Thơ Mới cũng
có đem ra thảo luận trong cuộc họp bạn của câu lạc bộ Tự Lập Nha Trang. Cuộc
thảo luận rất sôi nổi, song không ngã ngũ vào đâu. Liên Tâm và tôi chỉ ngồi
cười, không nói vì chủ trương bênh vực trường thơ Đường luật bằng cách cố gắng
làm việc cho có kết quả, làm việc trong vắng lặng, im lìm.
Vì cùng một môn phái lại
đồng một ý chí, nên vừa quen nhau chúng tôi liền thân mến nhau rồi yêu quí
nhau.
Cuộc gặp gỡ này có tác
động lớn trong đời văn chương của tôi:
Chính Liên Tâm đã giúp
tôi sắp xếp Một Tấm Lòng, thúc đẩy
tôi hoàn thành Mùa Cổ Điển. Và mối
tình tương thân tương ái ngấm qua Mùa Cổ
Điển, đọng lại Lá Mã Tiền và
phảng phất qua các tập thơ văn kế tiếp.
Liên Tâm chịu ảnh hưởng
của tôi cũng không ít:
Trước kia Tâm theo thuyết
"nghệ thuật vị nhân sinh". Nhưng sau khi công nhận "Thơ là
Thơ", "Thơ không vị cái gì hết" "Làm thơ là một sự cần thiết
cho đời sống của chính mình, như ăn
ngủ.." thì liền vứt bỏ những tác phẩm cũ – phần nhiều có tính cách chính
trị, thời thế… và áng tác theo quan niệm mới: Diễn tả tâm hồn.
Cho nên những thi phẩm
sau này của Liên Tâm, hầu hết thiên về tình cảm. Và những bài như bài Sợi Tơ Mành:
Thành xa mấy lượt trống sang canh
Tựa án mình riêng cảm nỗi mình!
Cao cả chưa đền ơn chín chữ
Nặng nề thêm ngán nợ ba sinh
Chòm hoa dưới
nguyệt so le bóng,
Tiếng hát bên
sông bận bịu tình
Nhện báo tin
gì sa trước mặt
Gió đưa lăng
líu sợi tơ mành!
Bài Nhắn Ai:
Thềm xuân mấy
độ lệ hoa rơi
Mấy độ mưa
thu liễu rối bời!
Nhớ chập chờn
non mây sớm tối
Tình lai láng
biển nước đầy vơi
Chiêm bao lẫn
quẩn trăng dầm gối
Tin tức bơ vơ
nhạn lạc trời!
Gương nhạt
cảnh đời chung tấc bóng
Tâm hồn riêng
gởi nước non ai.
Và bài Lại Nhắn
Ai:
Còi xe đêm
trước lọt rèm sưa,
Tin gởi vào
ai đã thấu chưa?
Tỉnh mộng nằm
ôn tràng mộng cũ,
Mong thơ lần giở xấp thơ xưa
Mong thơ lần giở xấp thơ xưa
Cỏ sương rung
động niềm thương nhớ
Mây nước nôn
nao ý đợi chờ.
Lơ đễnh bên
người ôm mặt khóc..
Hỏi tra duyên
cớ, ngại ngùng thưa..
Đều là những bài luật thi có giá trị. Những bài khác
đều có nhiều câu giai tác, đáng yêu.
Liên Tâm chẳng những sở trường về thơ Đường luật. Thơ
lục bát cũng rất luyện. Như bài Gởi Đời
Hoa sau đây:
Nâng niu một
đoá hoa đào,
Đời xuân em
gởi trọn vào tay anh.
Từ đây cách
cội xa cành,
Phấn hương
gìn giữ cho đành lòng nhau.
Thật là tinh diệu, lời đẹp tình thâm. Ngoài ra còn
nhiều câu ý vị như:
Ba sinh đã
trót đèo bòng
Ruột dâu mong
rút trọn vòng tơ vương.
Thương anh vò
võ phương trời
Trông mây
quán khách ngậm ngùi lòng quê.
Từ đây thân
gái chữ tòng,
Ra đi ôm
"Một Tấm Lòng" anh theo.
Vân vân...
Thơ Liên Tâm có giá trị như thế mà lâu nay ít người
biết đến, chỉ vì đó là những mảnh tình riêng, riêng tặng người tri kỷ, đem ra
phổ biến e không đẹp tia mắt bàng nhân. Tuy thế vẫn không phải chịu thiệt thòi,
vì đã có nhiều bậc thi sĩ đàn anh tán thưởng.
Như Tản Đà đọc bài Sợi
Tơ Mành do tôi gởi ra, viết thư vào khen rằng "Liên Tâm tuổi mới đôi
mươi mà luật thi đã hay đến thế, thì thật là có biệt tài". Và Chế Lan Viên
trong tờ Bạn Đường số 6 ngày 1 tháng 5 năm 1941 khen câu:
Nhớ chập
chùng non mây sớm tối
Tình lai láng
biển nước đầy vơi.
Là"cảnh người chung một mối tình, đến nỗi trong
thơ sự cảm xúc không biết là của ai, và câu:
Tỉnh mộng nằm
ôn tràng mộng cũ
Mong thơ lần
giở xấp thơ xưa
Là "một câu đẹp nhất trong những câu đẹp nhất mà
văn chương Việt Nam có thể có".
Còn Hàn Mặc Tử ở Qui Nhơn nghe tin tôi làm bạn cùng
Liên Tâm, bèn gởi vào một bài thơ rằng:
Trường Xuyên
ơi! Trường Xuyên ơi!
Viết chẳng
nên câu nói nghẹn lời..
Mây nước bao la
tình lẵng lặng
Khói sương mờ mịt nhớ chơi vơi.
Tương tư mộng
quyến năm canh mộng,
Luyến ái trời
trông bốn phía trời.
Ta nhớ ta
thương mình tệ quá!
Có ai khăn
khít lại quên ai!
"Có ai khăng khít" là ám chỉ Liên Tâm.
Và Bích Khê sau khi đọc những bài thơ của Liên Tâm do
tôi gởi ra Thu Xà, liền gởi vào Nha Trang một bài thơ nhan là "Gởi Chị
Liên Tâm, nhờ Quách Tấn trao lại", rằng:
Vẳng tai
tiếng hát bổng kia sông,
Thơ đẹp em
đương ướp cạnh lòng.
Thưa chị, đêm
nay dường nhớ quá,
Đưa thư hồng
nhạn biết mang không?
Một nhành mai
trắng long lanh ngọc,
Đôi cụm sao
vàng lã chã bông.
Muốn giáp mặt
nhau trong giấc mọng,
Khuya lơ còn
tựa ở bên song.
Ông bạn vong niên ở Nha Trang là Thuần Phu Trần Khắc
Thành có tặng đùa chúng tôi một bài Từ Khúc, rằng:
Long Trì
liên!
Long Trì
liên!
Dệt gấm đã
vương tơ Chức Nữ
Vẽ mày còn
mượn bút Trường Xuyên!
Lòng tài tử
Ý thuyền
quyên,
Vì đồng bịnh
Hoá tương
liên.
Đa tình gần
với Phật
Không tục ấy
là tiên.
Nỗi niềm ai
biết không ai biết,
Mây nước Cù
giang, Phạm Lãi thuyền.
Hai bài thơ và bài từ, văn chương tao nhã, tình ý nồng
hậu. Không cần có văn thơ để lại, Liên Tâm được ba bài tặng đó cũng đủ khỏi lo
tên tuổi mục theo cỏ cây. Huống hồ thơ của Liên Tâm tuy không được phổ cập
trong đại chúng, nhưng đã dược trong hàng thức giả hoan nghênh. Riêng tiếc thi
phẩm của Liên Tâm tôi có không được nhiều lắm. Những bài tôi hiện có là những
bài làm vào khoảng 1939, 1940. Những văn thơ trước kia, Liên Tâm đều huỷ bỏ, và
từ 1941 trở về sau Liên Tâm có còn theo đuổi văn chương hay không, tôi không
được rõ.
Vì:
Thu 1939, Liên Tâm phải ra Hà Nội. Vào khoảng cuối
1940, trở về Nha Trang, cùng tôi lựa chọn và sửa chữa những văn thơ Liên Tâm
làm từ khi gặp gỡ. Chúng tôi chọn được 20 bài vừa Đường luật vừa lục bát, hợp
thành một tập, đặt tên là Sợi Tơ Lòng.
Liên Tâm tự tay chép một tập, tôi chép một tập. Tập tôi chép Liên Tâm giữ, tập
Liên Tâm chép tôi giữ.
Rồi một đêm mưa lạnh, Liêm Tâm tìm tôi, buồn bã nói: "Về
Nha Trang đã hơn nửa tháng rồi, em không thể ở thêm được nữa".
Đoạn đưa tặng tôi một chiếc hộp nhỏ đựng một đoá hoa
đào ép khô mang từ Hà Nội về, và bài thơ Gởi
Đời Hoa (đã trích dẫn ở trước): "Xa anh chuyến này sẽ không bao giờ
gặp lại".
Tôi sửng sốt, Liên Tâm nói:
Chúng ta đã có với nhau "một đứa con tinh
thần" - Sợi Tơ Lòng yêu dấu –
thì xa nhau không còn ngại gì quên nhau.
Tôi nghẹn ngào, LiênTâm tiếp: "Chỉ còn có đêm
nay. Ngoài chuyện văn chương không nên hỏi gì, không nên nói gì: Tất cả đều vô
ích".
Rồi cùng tôi ngâm thơ và nói chuyện thơ.
Sáng ngày bình tĩnh lên xe. Từ ấy bặt tin tức!
Mây chiều cây xuân, buồn thương khôn nén, tôi đề vào Sợi Tơ Lòng một tuyệt rằng:
Một mối chung
tình vương chín khúc,
Đôi lời tri
kỷ luỵ ba sinh!
Canh khuya
chuyện cũ ngồi ôn lại:
Giọt lệ
thương ai trở khóc mình!
Kế chiến tranh bùng nổ. Những sách vở của tôi để ở Nha
Trang đều bị tiêu huỷ. Sợi Tơ Lòng cũng cùng số kiếp không may.
Nhưng cũng may xưa anh có sao một bản và vừa rồi lục
chép gởi vào cho. Tôi vui mừng không xiết kể!
Đêm hôm nay, người nhà đi chùa lễ Phật. Một mình ngồi
buồn đem Sợi Tơ Lòng ra đọc lại, bồi
hồi ảo não: Chốc đã hai mươi năm trời!
Tôi bèn xấp thơ lại để lòng trôi ngược thời gian.
Những cảnh ngày xưa đều hiện lần lần trong ký ức, nét đậm nét lợt, lợt ít đậm
nhiều..
Đêm vẫn chưa khuya, người vẫn còn vắng. Tôi bèn tỉnh
trí, tỉnh lòng, lược thảo mấy hàng nầy làm kỷ niệm. Người xưa đâu tá? Trong
nước non? Ngoài khói ráng? Sợi Tơ Lòng
có còn vương?
Và nghĩ: chiến tranh tàn phá, nếu không có người yêu
quí văn chương như anh, thì Sợi Tơ Lòng
dễ gì nối lại được nguyên như cũ. Vậy nên vội chép lại mấy lời truy ức, gởi ra
tặng anh, để tạm gọi là đền công ơn vậy./.