33. BÍCH NGỌC
Nha Trang tiết Lập Thu năm Mậu Tuất (1958)
Kính gởi chị Maria Mộng Hoa và hoạ sỹ Hương Bình,
Chị thích nghe chuyện lý thú trong làng thơ?
Chuyện Bích Ngọc thách hoạ thơ cũng là một câu chuyện
lý thú. Tôi xin kể chị nghe:
Câu chuyện xảy ra đã gần 25 năm.
Nguyên năm 1933, anh em Đà Lạt tổ chức một cuộc ca
kịch để lấy tiền ủng hộ đồng bào bị lụt ở Nghệ Tĩnh. Trong vở tuồng có một nhân
vật tên Bích Ngọc. Một phụ nữ Đà Thành đóng vai Bích Ngọc rất được hoan nghênh,
nên sau cuộc hát giúp anh em thường gọi là cô Bích Ngọc. Gọi là cô vì cô chưa
có lứa đôi mặc dù đã "quả mai ba bảy".
Cách ít lâu trên báo Tiên Long ở Huế và báo Công Luận
ở Sài Gòn, đăng một bài thơ thách hoạ, dưới ký tên Bích Ngọc.
Thơ rằng:
Gương sáng
hoa thơm mảnh má đào,
Giữ gìn giá
ngọc quyết treo cao.
Quả mai ba
bảy đương vừa lứa,
Bến nước mười
hai vẫn cắm sào.
Gác nguyệt tô
dồi duyên thục nữ
Bình chim chờ
đợi mắt anh hào.
Nhắn nhe chú
Mán anh Mường biết:
Thấy quế rừng
xanh chớ ước ao.
Dưới thơ có chú rằng "nếu ai hoạ hay sẽ ưng làm chồng,
không điều kiện".
Thơ hoạ đăng trên các báo rất nhiều, nhất là trên 2 tờ
Tiên Long và Công Luận. Vì bài xướng có ý xấc xược nên hầu hết các bài hoạ đều
chưa lời đả kích. Tôi chỉ còn nhớ được đôi câu như:
Vườn xuân ong
bướm khôn ngăn lối,
Bể dục phong ba
khó vững sào.
của một nhà thơ hữu vị vô danh ở Đà Lạt và câu:
Năm hồ nhẹ
tếch thuyền Tây Tử
Vùng vẫy mà
chi vũng nước ao.
của một ông lão hữu danh vô vị ở Nha Trang
Lúc bấy giờ tôi ở Đà Lạt, Hàn Mặc Tử ở Qui Nhơn viết
thư lên hỏi thăm lai lịch Bích Ngọc, rồi gởi đăng ở Công Luận một bài thơ công
kích rằng:
Bích Ngọc nào
đây muốn lậy chồng?
Con nuôi bà Tú phải hay không?
Trăng non khi đã nhiều lên xuống,
Bến nước bây giờ lắm đục trong.
Bảy chữ tám nghề e thạo ngón?
Năm chờ mười đợi tiếc cho công.
Thôi thôi chớ ước gieo cầu nữa:
Sẵn Tú-Xơn kia kết giải đồng.
Bài thơ xuất hiện làm
khoái chí nhiều người, và nhiều người tưởng rằng bị một đòn đau Bích Ngọc không
dám "hó hé" nữa. Nhưng chỉ vài số sau, Công Luận đăng bài hoạ của
Bích Ngọc. Hoạ rằng:
Thục nữ nào e nỗi ế chồng,
Dèm pha mặc kẻ, ngó như không.
Sen phơi nắng hạ hương càng thắm
Bùn lóng hồ thu nước vẫn trong.
Dòng Ngự gieo thơ chưa gặp khách,
Cầu Lam đợi ngọc quản chi công.
Miệng lằn lưỡi mối đừng khua nữa,
Ta há như ai, vững tựa đồng.
Hàn Mặc Tử viết thư lên
xin hoà giải để cho "làng thơ bớt sóng gió". Nhưng sóng gió đã chẳng
bớt mà vì trận "thuỷ chiến" vừa qua lại càng thêm dữ dội hơn trước.
Các bạn làm thơ bỏ vận "đào" hoạ vận "chồng", gởi đến các
báo đăng thật không kịp. Có nhiều bạn lại gởi ngay cho tôi nhờ đưa "tận
tay Bích Ngọc"
Cuộc xướng hoạ kéo dài
hằng năm. Nhưng Bích Ngọc không lựa được ai làm chồng nên vẫn một mình đi trưa
về sớm.
Năm 1935 tôi đổi xuống
Nha Trang, kết bạn thân cùng một nhà nho là Thuần Phu tiên sinh.
Thuần Phu tuổi gần sáu
mươi, nhưng sức còn khoẻ, tánh vui và đa tình. Tiên sinh thường ngâm câu:
Bần nhi mãi tiếu do thân luỵ
Lão trượng đa tình hoặc thọ trung.
Một hôm đương ngồi thưởng
trăng, một người mù đi ngang rao "bóp lưng". Tiên sinh cười ha hả
ngâm rằng:
Có gái tra cũng có gái xuân
Bóp đâu chẳng bóp bóp ngang lưng.
Ai nấy đều cười rộ. Nhân
đó tôi mới đem câu chuyện Bích Ngọc thách hoạ thơ ra nói và yêu cầu Thuần Phu
hoạ để "chiếm bảng ngọc". Tiên sinh ước được thấy mặt. Nhân có phiến
ảnh của một người bạn gái, chữ ký từa tựa chữ "Bích Ngọc", tôi đưa
cho tiên sinh xem. Tiên sinh rất lấy làm thích và hỏi tôi: "Sao ông không
hoạ" Tôi đáp rằng vì quen với nhà tôi nên phải kiêng. Tiên sinh thích chí
cười to, rồi nghĩ họa một lượt bốn bài. Có hai câu xuất sắc, rằng:
Mai sưa trái chín tình thêm thiết,
Dương nảy chồi xuân hứng mới hào.
Thật rõ là ông già ve gái
lỡ thì.
Tôi lãnh thơ để gởi lên
Đà Lạt. Ít hôm sau tiên sinh được thư của Bích Ngọc do nhà bưu chính đưa đến.
Bích Ngọc khen 4 bài thơ hoạ và nói xa xa đến việc trăm năm. Thuần Phu sướng
quá, liền đến mách với tôi. Tôi rất sướng. Tiên sinh sướng phần tiên sinh, tôi
sướng phần tôi, mỗi người sướng một cách, mỗi người sướng mỗi cớ, nhưng người
nào mặt cũng hân hoan, vỗ vế nhịp đùi, ngất nga ngất ngưởng.
Nhưng rồi tiên sinh lại
đâm lo, vì nghĩ rằng mình già cô ấy trẻ, nếu có người nói vào nói ra thì chắc
chi cô ta giữ lời hứa. Tiên sinh bèn bày ra một kế là gởi cho Bích Ngọc một bức
thư nói rằng:
"Vì lòng quá tơ
tưởng đến cô nên khi hôm nằm mộng thấy Tây Vương Mẫu, Ngài cho biết rằng cô và
tôi đều là người trên thiên giới. Cô làm chức Quản Tửu, tôi làm chức Giám Trà,
hầu hạ Thượng đế. Ngày nọ tôi đang quạt nước pha trà sớm mai thì thấy một con
trâu vàng băng vào vườn Gia Hoà trước điện. Đó là sao Lâu Kim Ngưu mà tôi không
biết. Tôi liền chạy ra đuổi đánh. Khi
trở vào thì nước bị trào cạn hết! Nước ấy vốn là ngọc lộ đọng trên lá sen hồ
Giao Trì, mỗi đêm chỉ hứng được một bình nhỏ. Nước cạn không lấy gì pha trà,
nên bị Thượng đế phạt đày xuống hạ giới. Cách một tháng sau cô cũng bị đày, vì vô
ý để con Hư Nhật Thử là con chuột trong sao Hư, ăn vụng hết men huyền sương-
một thứ men dùng hàng vạn hàng nghìn hộc sương thu lọc lấy tinh ba rồi cô lại -
không lấy gì ủ rượu làm tiệc Bàn Đào. Vì bị đày kẻ trước người sau, trước sau
tuy chỉ có một tháng, nhưng trên trời một
bữa dưới thế một năm, nên tác trông kẻ già người trẻ. Chứ nếu lấy tuổi
trời mà suy thì mọt bên còn đương măng, một bên cũng mới vừa nên trúc. Tây
Vương Mẫu lại dạy rằng chúng ta tuy bị đày nhưng Thượng Đề vẫn nhớ đến công lao
nên đã định mãn hạn rồi cho về thiên cung trở lại. Tôi có hỏi thăm về duyên tơ
tóc, ngài phán rằng vì muốn cho chúng ta sum họp nơi trần thế nên mới đày cả
hai xuống nước Việt Nam. Cho nên chúng ta được gần gũi nhau tuy nhờ duyên thơ
song vốn đã sẵn có tiền duyên và tiền định".
Tôi khen là một diệu kế.
Nhân cao hứng tôi tóm tắt câu chuyện trong một bài ngũ ngôn khẩu đắc:
Ngày trước kiếp đôi ta
Cửa thượng đế vào ra
Cô làm bồi nấu rượu
Tôi làm bếp pha trà.
Nước cạn: lòng trâu quấy
Men hao: mỏ chuột tha.
Đày xuống người sau trước,
Xui nên tác trẻ già.
Thiên cảnh vui sum họp,
Trần duyên cũng mặn mà.
Chi để chia hai ngả
Trông mau họp một nhà.
Tu hành chung
gắng sức,
Tội trước sớm
nhiêu tha.
Tiên sinh rất ưng ý, nhờ tôi chép dùm thư và thơ gởi
lên Đà Lạt cho Bích Ngọc. Tôi xin vâng. Ít lâu sau tiên sinh được thư trả lời
của Bích Ngọc, cũng do nhà bưu chính đưa tới. Bích Ngọc nói rằng "chuyện
đời tuy thực mà hư, còn giấc mộng kia ngó hư mà thực" Lại nói gần gần đến
chuyện trăm năm.
Tiên sinh hơi bối rối "Lộng giả thành chơn"!
và "tấn diệt nan hề thối diệt nan" là hai câu tiên sinh thường ngâm
sau khi đọc thư Bích Ngọc. Tôi bỡn tiên sinh bốn câu rằng:
Già kén lỡ
làng duyên Bích Ngọc,
Xe tơ bối rối
dạ Thuần Phu.
Nặng tình
dương cỗi sanh cành bích
An phận bìm
non dựa bóng cù?
Vì "tấn thối lưỡng nan" nên gặp ai quen
biết, tiên sinh cũng đem chuyện Bích Ngọc ra nói và nhờ giải quyết. Người thì
lên mặt đạo đức rầy tiên sinh "sao đắm lòng vào bể ái". Người thì
diễu cợt tiên sinh:
Tuổi hạc đã
toan tìm đất xuống
Máu dê lại
muốn trổ trời lên.
Có người lại bảo
Bích Ngọc là Quách Tấn đấy. Không nên tin.
Ai nói gì mặc ai, tiên sinh vẫn giữ "vững lập
trường"
Nghe tin tiên sinh đã "đâm ghiền Bích Ngọc",
Hàn Mặc Tử và Quách Kiến Đạo viết thư yêu cầu tôi phải lo tìm "thuốc
cai" kẻo để lâu ngày thành "bất trị". Tôi không lấy làm lo vì
biết tình tiên sinh:
Khuây sầu vạn
cổ ba chung rượu
Xoá chuyện
năm châu một ván cờ.
Tuy thế tôi vẫn không dám để tiên sinh "bước thêm
một bước nữa", cho nên mỗi khi tiên sinh nói đến B.N thì tôi "đánh
trống lãng".
Được ít lâu có người trên Đa Lạt xuống tin cho tiên
sinh biết Bích Ngọc bị cha mẹ ép gả cho một công chức cao cấp rồi. Tiên sinh
hết sức buồn! Nhưng "sầu vạn cổ" và "chuyện năm châu" mà
chỉ vài chén rượu và một cuộc cờ cũng khuây khoả xí xoá được, huống hồ "chuyện
mê gái" "sầu mất tình nhân chưa quen biết". Cho nên chỉ trong
vài tuần nhật, tiên sinh cùng tôi trong những lúc nhàn hạ, vẫn xúng xính xùng
xình, hỉ hỉ hả hả. Và một năm trôi qua.
Tôi đã tưởng câu chuyện Bích Ngọc đến đó là chấm dứt.
Nhưng một buổi trưa tôi đi làm việc về vừa tới ngõ, thì tiên sinh bước ra hớn
hở nói:
"Bích Ngọc! Bích Ngọc!"
Tôi ngạc nhiên. Tiên sinh lấy tay chỉ vào nhà. Tôi vào
thấy nhà tôi đang tiếp chuyện một cô bạn. Nhà tôi ngó tiên sinh và ngó tôi mà
cười. Tôi thở phào một cái mạnh:
"À Bích Ngọc!"
Rồi lẩm bẩm ngâm:
"Con quạ ăn dưa bắt
con cò trơi nắng. Em nằm em nghĩ cái sự đời: con cò trắng con quạ đen".
Tiên sinh hỏi:
"Ông ngâm gì thế?
Sao lại có cò có quạ?"
Tôi cười không đáp và
giới thiệu tiên sinh cùng cô bạn. Đoạn chúng tôi mời tiên sinh ở lại dùng cơm.
Trong bửa cơm tiên sinh đem những chuyện "về lòng" ra nói. Cô bạn
ngồi nghe không hiểu gì cả. Tưởng tiên sinh nói với tôi vì thấy tôi khi gật đầu
khi cười nụ, nên không đáp và không hỏi chi thêm. Thấy cô bạn đối với mình một
cách hững hờ, tiên sinh rất lấy làm bất bình, uống nước xong xin cáo về, cầm
mấy cũng không ở.
Nhưng cô bạn từ biệt Nha
Trang được vài hôm, thì tiên sinh lại đến tìm tôi, vẻ đầy hoan lạc. Tiên sinh
nói:
Lâu nay cứ ngỡ là Bích
Ngọc bạc tình. Té ra không phải. Đoạn trao cho tôi một bức thư do nhà bưu chính
đưa đến. Bức thư chỉ là một bài thơ bát cú, rằng:
Tình cờ hôm trước gặp tiên sinh
Cặn kẽ toan đem tỏ nỗi mình.
Gần gũi lại e câu bất chính,
Thờ ơ cam chịu tiếng vô tình.
Đọc xong có xét cho thời chớ
Đen bạc dù chê vậy cũng đành.
Tâm sự canh chầy khôn chép cạn:
Dòm song
chinh chích bóng trăng xanh.
Tôi nói:
Tình quá nhỉ?
Tiên sinh hồn nhiên đáp:
"Thật là chí tình! Tình nhất là câu kết: ngôn tận
tình bất tận!"
Từ ấy lòng tiên sinh thêm vui và bên mình một chút
hương tình luôn luôn phảng phất, như không như có, không đậm nhưng không bao
giờ phai.
Có người cười tiên sinh khéo "cỡi mộng vào Thiên
Thai" và trách tôi "khuấy hồ bằng nước lã" Chúng tôi chỉ cười mà
không đáp, vì mộng hay thức, nước hay hồ, chi cũng là một cuộc chơi cả.
Nay tiên sinh đã qua đời rồi mà câu chuyện tiên sinh
cùng Bích Ngọc, khách làng thơ vẫn còn nhắc nhở đến, thì chơi kia là lãi đấy,
người không chơi sao lại trở cười trách người đã chơi và biết chơi.
Nhưng để cho rõ thêm chắc chị không khỏi hỏi:
Vậy Bích Ngọc ký dưới những bài thơ kia có phải là
Bích Ngọc diễn kịch lấy tiền giúp đồng bào Nghệ Tĩnh? Và cô bạn mà Thuần Phu
tiên sinh gặp đó có phải người rong tấm ảnh tiên sinh đã được xem?
Thưa chị, quạ đen cò trắng mà nhiều khi người đời còn
lầm lẫn nhau, huống chi người đẹp với người đẹp, có lẫn người nầy với người kia
cũng không can chi, miễn đừng bắt đem "trơi nắng" là được. Còn tác
giả những bài thơ ký tên Bích Ngọc thì nếu không phải Bích Ngọc thì là ai?
Chẳng lẽ là…là…
Xin chào chị./.
34. Đêm Thu
nghe Quạ Kêu
Nha Trang tiết Lập Thu năm Quí Mão (4/8/63)
Anh Bàng Bá Lân,
Được thư anh hỏi về trường hợp tôi sáng tác bài
"Đêm Thu Nghe Quạ Kêu", tôi xin phúc anh rõ:
Nguồn cảm xúc bài thơ ấy nằm trong người tôi ngót 12 năm
trời.
Nguyên một buổi chiều cuối thu năm Đinh Mão (1927),
tôi ở Trường Định xuống An Thái hốt thuốc cho bà thân tôi. Lúc trở về thì trời
đã tối. Theo con đường gần và dễ đi nhất, tôi sang bến đò An Thái sang An Vinh,
rồi theo con đường ven bờ sông Côn đi thẳng lên (1)
Đêm hôm ấy có trăng, nhưng không được sáng, vì trời
nhiều sương. Tôi vừa đi vừa nghỉ vơ vẩn. Chợt đến một khúc đường tre che khuất
cả bóng trăng, và mo nang rụng đầy mặt đất. Tôi dậm phải những mo khô mới rụng,
tiếng kêu sột sột làm bầy quạ đang ngủ trên cây, giựt mình chớp cánh kêu vang
dậy. Tiếng kêu thình lình giữa đêm vắng, nghe vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Cả
mình tôi rởn ốc!
Từ ấy tiếng quạ ám ánh tôi luôn.
Cách ba tháng sau bà thân tôi mất. Tiếng quạ vẫn cứ
theo tôi, nhưng giọng rùng rợn lạnh lùng đổi thành giọng não nùng hiu hắt. Qua
một thời gian khá lâu, tiếng nghe thưa dần và nhạt dần, rồi lịm mất.
Mùa hạ năm Kỷ
Mão (1939), một đêm trăng tôi ngồi hóng mát cùng nhà tôi và anh Nguyễn Đình,
trên bờ Đầm Nha Trang ở trước mặt nhà. Lúc ấy đã khuya. Nghe tiếng phở rao, nhà
tôi gọi. Không thấy trả lời, anh Nguyễn Đình gọi tiếp. Tiếng gọi bị núi Sinh
Trung bên kia Đầm dội lại, ngân dài trong đêm khuya. Tiếng quạ năm xưa ở trong
tâm hồn tôi vụt thức dậy rộn ràng. Rộn ràng nhưng dịu dàng chớ không rùng rợn,
cũng không não nùng như ngày trước.
(1) An Thái thuộc quận An Nhơn, ở Nam ngạn sông Côn. An
Vinh thuộc quận Bình Khê (nay là Tây Sơn) ở Bắc ngạn sông Côn. Làng tôi cũng
thuộc Bình Khê, cách An Vinh chừng 7 cây số ở phía Tây.
Trở vào nhà, suốt đêm tôi không ngủ được. Tiếng quạ vang
vọng bên tai và gợi lên không biết bao nhiêu là ký ức. Phần thì nhớ mẹ già xưa,
phần thì thương cảnh làng cũ, bồi hồi ảo não, tôi nằm im lìm để cho nước mắt
tuôn. Niềm nhớ thương vơi dần theo nước mắt và lòng tôi êm dịu lần lần.
Toan ngồi dậy ghi lại mối cảm xúc, song thắp đèn sợ
quấy rầy giấc ngủ của vợ con, tôi đành nằm yên đợi sáng.
Sáng hôm sau nhằm ngày Chúa nhật, được nghỉ, tôi toan
lấy giấy bút để làm thơ thì khách đến! Thế là mất hết buổi sáng. Chiều đến đóng
kín cửa phòng, một mình ngồi lập ý.
Vừa nghỉ đến từ quạ thì liên tưởng ngay đến màu đen,
đến từ ô. Từ ô làm nhớ đến bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích.
Chu tước kiều
biên dã thảo hoa
Ô Y hàng khẩu
tịch dương tà
Cựu thời
Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm
thường bách tánh gia.
Những cảnh trong hiện mơ màng ra trước mắt.
Tôi để bút xuống bàn, ngồi nhắm mắt lại cho lòng vui
theo cảnh… Bầy yến dễ thương bỗng bay tản mác rồi nhập lại nơi một lùm tre cao…
Tre che khuất bóng bầy chim én, nhưng lại đưa ra mấy
tiếng quạ rộn ràng. Liền đó như một cuốn phim, những cảnh bến đò An Thái biến
thành bến Phong Kiều của Trương Kế với quang cảnh:
Nguyệt lạc ô
đề sương mãn thiên
Giang phong
ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành
ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung
thanh đáo khách thuyền.
Và con sông Côn biến thành giòng Xích Bích, với con
thyền của Tô Đông Pha trôi chầm chậm dưới bóng trăng thu. Tôi tưởng tôi là họ
Tô dang ngồi vuốt chòm râu rậm bay phất phơ trước gió và gõ mạn thuyền ngâm bài
phú Xích Bích có nhắc đến họ Tào. Tôi lại trông thấy rõ dáng đắc ý của Tào Mạnh
Đức đứng trên đoàn thuyền kết dài trên mặt sông, quay ngang ngọn giáo ngâm bài:
Nguyệt minh
tinh hi
Ô thước Nam
phi
Nhiễu thọ tam
táp
Vô chi khả y!
Rồi hết điển này đến điển khác nối nhau đưa tôi vào
sâu trong cõi mộng. Tôi ngồi ngủ say cho đến lúc người nhà lay dậy ăn cơm tối!
Cơm xong tôi ngồi lại bàn giấy làm việc. Tôi nhất định
ghi tất cả những gì đã đến cùng tôi. Nhưng không thể được, vì tôi không thích
lối thơ trường thiên. Tôi bèn chọn lọc những nét rung cảm đậm nhất nên thơ nhất
dồn vào trong 8 câu:
Từ Ô y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng
rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương
thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt
mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương
sông bạc
Thắc thỏm chăng ai quả ấn
vàng?
Tiếng dội lưng mây đồng
vọng mãi
Tình lan man gợi
tứ lan man.
Tôi rất lấy làm
thích, và lấy đầu đề "Đêm nghe quạ kêu".
Năm 1941, nhân
các bạn ở toà soạn tạp chí Bạn Đường mới xuất bản, gởi thư xin bài, tôi gởi
đăng bài ấy.
Cách đó ít lâu
xem xét lại các thơ đã làm để in vào tập Mùa Cổ Điển, tôi nhận thấy bài
"Nghe Quạ Kêu" câu luận chưa sướng.
Câu trạng do
những cảnh cũ gợi điển
Câu luận bị thời
cuộc lúc bấy giờ ảnh hưởng:
Lúc bấy giờ quân
Nhật đóng ở Việt Nam, nhiều người đi lính để lập công danh, nhiều bà vợ bị
chiếc bóng. Do đó mà mượn đến sông Ngân, mượn đến tích Trương Hạo lượm được một
viên đá tròn do con sơn thước hoá ra, đem đập vỡ thì thấy một quả ấn vàng có
mấy chữ "trung hiếu hầu ấn" sau làm tướng được phong đến tước hầu.
Chưa lấy làm
sướng, nhưng sửa mãi chưa được.
Một đêm ngồi tựa
lan can, trầm ngâm ngẫm nghĩ. Ngoài trời trăng sáng vằng vặc. Những cánh cửa sổ
mở hé được ánh trăng chói vào trông như xuy bạc, và thềm giếng mới rửa loang
loáng sắc hoàng kim. Trí tôi và mắt tôi dồn vào sắc vàng sắc trắng của cảnh vật
và của câu thơ. Chợt một vật gì rơi vào lòng giếng tạo thành một tiếng
"chũm" lạnh lùng. Tôi cảm xúc sửa ngay được câu thơ:
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu au rụng giếng vàng
Sửa được câu này
tôi khoái hơn khi làm xong 8 câu trước. Nhưng ngâm đi ngâm lại, lại thấy câu
kết chưa nói được nỗi lòng. Một lần nữa tôi phải sửa lại:
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
Như thế là ổn.
Thích chí ngâm vang cả trời khuya.
Chế Lan Viên cũng
cho câu sửa hơn hẳn nguyên tác, nhưng còn chê đề bài không được nên thơ mới
thêm vào từ "thu" thành Đêm Thu Nghe Quạ Kêu.
Đó là tiểu sử bài
"Đêm Thu nghe Quạ Kêu", một bài thơ thai nghén một giáp tròn, thành hình
trong nửa đêm, rồi đến hơn hai năm sau mới được sửa chữa lại. Và lúc nhuận sắc
cũng như lúc sáng tác tôi hưởng được nhiều hứng thú.
Vì thế mà lâu nay
tôi thích bài ấy hơn các bài khác. Hôm nay tôi lại hưởng thêm một thích thú nữa
là vừa tìm thấy một sự ngẫu nhiên lạ lùng:
-
Bị tiếng quạ xúc động năm Đinh Mão
-
Làm bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu năm Kỷ Mão
-
Viết lại sự tích bài thơ năm Quí Mão
Trước anh đã có
Bích Khê hỏi về trường hợp sáng tác. Tôi kể cho Bích Khê nghe, Bích Khê bảo tôi
viết lại, nhưng từ bấy đến nay tính đã trên 20 năm rồi, tôi cứ định viết mãi,
mà mãi vẫn không muốn viết. Nay nếu không có anh hỏi nữa, mà bức thư anh không
đến nhằm ngày Chúa nhật, là hôm nay, thì e còn lâu lắm tôi mới viết.
Âu cũng là thiện
duyên.
Kính chào anh và cầu chúc anh an lạc./.