35.
SỰ THẬT TRONG THƠ
Nha Trang tiết Lập Đông năm
Giáp Thìn (11/64)
Anh Vương Kỳ Sơn,
Hôm trước ông khách nói: Các
nhà thơ chỉ sống trong mơ trong mộng, cho nên những gì họ nói ra trong thơ đều
không thực hoặc xa thực tế. Thấy tôi làm thinh chắc anh cho rằng tôi mặc nhiên
công nhận ý kiến của ông khách.
Không phải thế.
Tôi nghĩ rằng: Một người suốt
đời chỉ quanh quẩn nơi ao hồ, sông suối... chưa hề biết biển là cái gì; nếu
người ấy bảo "nước ở đâu cũng ngọt" mà mình cãi rằng "nước biển
mặn" thì nhất định bị gán ngay cho hai chữ "nguỵ biện" hoặc
"loạn ngôn".
Cho nên nhiều khi "làm
thinh" không phải là mặc nhiên công nhận.
Cổ nhân dạy rằng: Gặp người không đáng nói mà nói thì mất lời.
Gặp người đáng nói mà không nói thì mất người.
Vì theo lời dạy của cổ nhân, hôm
trước tôi không nói với ông khách, mà hôm nay phải nói với anh.
Các nhà thơ bị mang tiếng
"chỉ sống trong mơ trong mộng", là vì họ sống với nội tâm nhiều hơn
với ngoại cảnh. Và nhìn vào ngoại cảnh, họ nhìn bằng lòng hơn bằng mắt, lại chỉ
thu nhận những gì đặc biệt, những gì ẩn khuất, những gì tế nhị... mà thôi.
Như nhìn vào cảnh mùa thu, Chế
Lan Viên thấy:
- Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao.
- Cũng mới độ nào trong gió lộng
Nến lau bừng sáng, núi lau xanh.
Và Xuân Diệu lại thấy:
- Những luồng
run rẩy rung rinh lá..
Đôi nhánh khô
gầy xương mỏng manh.
- Hư vô khói
toả trên đầu hạnh
Cành biếc run
run chân ý nhi.
Đứng
trước mùa thu, Lưu Trọng Lư chẳng những thấy những hình ảnh ẩn náu trong chiều
sâu của cảnh vật, mà còn nghe cả những tiếng mà không mấy người để ý nghe:
Em không nghe
mùa thu
Dưới trăng mờ
thổn thức?
Em không nghe
rạo rực
Hình ảnh kẻ
chinh phu
Trong lòng
người cô phụ?
Em không nghe
rừng thu
Lá thu kêu
xào xạc
Con nai vàng
ngơ ngác
Đạp trên lá
vàng khô!
Mùa
thu là một mùa nên thơ nhất trong 4 mùa, và ai lại không quen với mùa thu. Thế
mà mấy ai đã nhìn thấy những hình ảnh, nghe thấy những thanh âm như trên?
Cũng
như mùa thu, mặt trăng rất quen thân với nhân thế. Nhưng chỉ riêng Hàn Mặc Tử
mới nhìn thấy:
Trăng nằm
sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió xuân
về để lả lơi.
Và:
Bỗng hôm nay
trước cửa bóng trăng quì
Sấp mặt xuống
uốn mình theo dáng liễu.
Phải
có những nhận xét tinh vi của một tâm hồn tế nhị và một đời sống bên trong dồi
dào, mới có thể cảm xúc và phác hoạ những nét độc đáo thế ấy.
Những
nhà thơ có một nội tâm phong phú, nhìn vào đâu cũng nhận thấy được những điểm
khác thường. Như nhìn vào bức tranh loã thể, thi sĩ Bích Khê đã thấy:
Nàng là
tuyết: Thịt da nàng tuyết điểm;
Nàng là
hương: Nhan sắc mộng lên hương;
Mắt ngời châu
rung ánh sóng nghê thường,
Lệ tích lại
sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền
ngủ mơ trên mái tóc,
Vài chút
trăng say đọng ở lằn môi.
Ôi! Rung rinh
hai núm vú cong đồi!
Tôi muốn nút
một dòng sâm ngọt lộng.
Vân
vân…
Đọc
những câu trích dẫn trên đây, phần đông đều cho là "không thực" hoặc
"xa sự thực".
Có
biết biển mới biết nước biển là mặn.
Muốn
biết những gì kia có thực, có xa sự thực hay không, thì cần phải chứng nghiệm,
nghĩa là phải tạo cho mình một đời sống nội tâm, phải luôn hoà mình với cảnh
vật.
Anh
vốn thích Thơ và thường công nhận rằng: "Dưới con mắt nhà Thơ, tất cả
những gì ẩn nấp trong thâm tâm vạn vật đều hiển hiện lên cả". Đó là lấy lý
trí mà công nhận, chớ chưa thể chứng.
Nghe
nói nước biển mặn, anh tin lời nói ấy đúng sự thật. Nhưng nếu anh muốn rõ nước
biển mặn như thế nào thì anh nên nếm thử.
Nghĩa
là: Nếu anh muốn nếm chân vị của Thơ, muốn cùng tác giả các bài thơ, các câu thơ
anh thích, rung cảm một cách chân thành, thì anh nên thể nhập vào thơ, tức là
cố tạo cho mình một đời sống bên trong vững chắc.
Chừng
ấy anh sẽ thấy những gì các nhà thơ - các nhà thơ chân chính, lẽ tất nhiên -
nói ra trong thơ họ đều đúng sự Thực. Và những Cái mà người đời cho là Mộng là
Mơ, nó chỉ mộng, mơ đối với những người chỉ sống hời hợt với ngoại cảnh mà
thôi..
Cũng
như khi chưa thể hội được cái Đẹp thường trú của Bản Thể nhiệm màu, thì chúng
ta chỉ thấy xuân trong mùa hoa nở. Nhưng khi đã giác ngộ rồi, lúc nào cũng thấy
xuân, nơi nào cũng gặp xuân. Cho nên ngài Giác Hoàng Điều Ngự đời Trần có bài
thơ rằng:
Niên thiếu hà
tằng hiểu sắc không
Nhất xuân tâm
sự bách hoa trung.
Như kim khám
phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ
đoàn khán truỵ hồng
Nghĩa
là:
Tuổi trẻ mơ
hồ lẽ sắc không,
Vui xuân lòng
gởi khoảng trăm bông
Chúa Đông rày
đã tầng quen mặt
Thong thả
ngồi xem nhánh rụng hồng.
Đối
với hững người còn mê đắm danh lợi thì làm sao tin được rằng "xuân tồn tại
cả trong lúc hoa đã rụng hết" nghĩa là: "xuân có cả trong những mùa
không gọi là xuân". Đọc bài này nhất định họ cho là lời nói huyễn hoặc.
Các
nhà thơ tuy chưa toàn giác, nhưng nhờ sức sống mạnh mẽ của nội tâm, đã giao cảm
thường xuyên cùng vạn vật, nên nhận thấy được phần nào những bí ẩn, những tinh
tế của Vũ trụ, và đem vào thơ những gì họ đã nhận thấy thật sự. Vì không nhận thấy
được những cái nhà thơ nhận thấy, người đời cho là "mơ mộng", cũng
như những người chưa giác ngộ cho lời nói "xuân có trong những mùa không
gọi là xuân" là huyễn hoặc vậy.
Tôi
xin quả quyết cùng anh rằng không ai thành thật bằng các nhà Thơ.
Anh
sẽ tin lời nói của tôi khi anh thật sự trỡ về với nội tâm.
Xin chào anh, và mong anh
đừng cho lời nói của tôi là phù phiếm mà không lưu ý./.
36. CHUÔNG KHUYA
Nha
Trang tiết Tiểu Tuyết năm Giáp Thìn.
Thân
gởi anh Trần Thúc Lâm
Bài
Tiếng Chuông Khuya tôi làm đã lâu.
Nguyên là:
Từng giọt châu rơi mắt mẹ hiền
Mừng con lưu lạc trở đoàn viên
Lòng thơ trải hứng bao âu yếm
Mộng quyến phiền ba tỉnh hảo huyền
Đây
là mấy nét ghi vội mối cảm xúc lúc nghe chuông.
Khi
san nhuận tập Đọng Bóng Chiều, bài này bị loại ví câu tam tứ tôi không ưng mà
sửa mãi không được.
Hôm
trước sau khi anh cho ý kiến về Động Bóng Chiều tôi quyết định rút bài Bóng Người Thơ ra và thay Tiếng Chuông
Khuya vào, sau khi sửa được câu tam tứ.
Chắc
anh cười: Nếu không muốn để thì bỏ quách cho xong, thay thế làm gì cho nhọc công
sửa chữa?
Xin
thưa:
Số
bài trong Đọng Bóng Chiều vốn không lòng định trước. Nhưng khi chọn lựa xong
tôi đếm được 108 bài. Bác Vân Sơn Trần Quang Dục trông thấy vỗ vế cười lớn.
Hay quá! Một xâu chuỗi Bồ Đề!
Thật là điềm tốt ứng theo lời nguyện của bác trong bài cúng dường ngày Phật Đản
năm nọ:
Phước duyên
được thấy hoa Đàm nở
Lòng Đạo
nguyền dâng trọn ý Thơ.
Lòng tôi vô cùng hoan hỉ!
Và cho đó là một mối tiện duyên.
Vì vậy số bài trong tập thơ không
đành di dịch. Muốn rút Bóng Người Thơ ra thì phải có bài khác thay thế mới
được.
Trong các bài thơ cũ ở ngoài tập,
tôi xét thấy bài Tiếng Chuông Khuya trội hơn hết.
Thêm nữa, trong thời gian này bị
phong trào đấu tranh lôi cuốn, tâm hồn tôi không được yên vui. Và nhận thấy
không có khả năng lo việc lớn, không có ích cho công việc chung mà còn làm mất
bản sắc riêng của mình mà từ lâu đã dày công tu dưỡng. Nên bèn trở lại với văn
chương. Gần một tháng nay, lần lần tôi lấy lại được bình tĩnh. Và bài Tiếng
Chuông Khuya thường lai vãng trong hồn tôi. Nhưng câu tam tứ vẫn không làm cho
tôi thoả mãn.
Vì vậy dù phải nhọc công đến đâu
cũng phải gắng sửa chữa cho kỳ được.
Để khỏi làm mất chất thơ của
nguyên tác, tôi lắng lòng sống lại niềm rung cảm trong những phút nghe chuông.
Rồi lo đúc chữ rèn câu. Nhưng nhọc sức đã bao phen, tôi vẫn không diễn đạt nổi
mối cảm xúc! Tôi đành bỏ đó... Bỗng tình cờ tôi tỉnh ngộ:
Té ra thất bại chỉ vì dùng mãi
lối trực trần.
Tôi liền đổi phương pháp và xuống
được câu:
Sông thu tan tạnh lòng sương khói
In bóng chùa
xa trăng nửa hiên.
Xin
thú thật rằng tôi rất lấy làm đắc ý: Lời thơ thanh lão và mặc dù hình hài và sắc
thái câu thơ chưa đổi khác, niềm yên vui cùng ý hồi hướng vẫn giữ được y
nguyên.
Nhưng
vừa rồi đem ra ngâm lại, tôi nhận thấy câu: Sông
thu tan tạnh lòng sương sóng
Hình
ảnh chưa được dồi dào.
Liên
tưởng đến bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế:
Nguyệt lạc ô
đè sưong mãn thiên
Giang phong
ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành
ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung
thanh đáo khách thuyền.
Mà
có người phỏng dịch là:
Quạ kêu trăng
lặn trời sương
Lửa chài cây
bãi sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu
bến Cô Tô
Nửa đêm nghe
tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Tôi
liền hứng bút sửa ngay câu" Sông thu…" thành:
Neo thu bến
tạnh thuyền sương sóng
In bóng chùa
xa trăng nửa hiên.
Như
thế câu thơ sửa đối với bài Phong Kiều Dạ Bạc có tình bà con xa. Và câu này so
với câu trước, theo ý tôi, trội hẳn về ngoại diện cũng như về nội dung.
Ngâm
lại toàn bài:
Từng giọt
châu rơi mắt mẹ hiền
Mừng con lưu
lạc trở đoàn viên
Neo thu bến
tạnh thuyền sương sóng
In bóng chùa
xa trăng nửa hiên.
Lòng
tôi vô cùng thích thú. Thích nhất ở điểm: Tiếng chuông không nghe mà chỉ thấy
vì đã tan theo dòng cảm xúc, đi từ giọt lệ từ bi đến bến sông thanh tịnh để đưa
lòng hồi hướng về nơi xuất phát: chùa hé bóng trăng. Thành ra nguồn thơ từ
ngoại cảnh vào nội tâm, rồi từ nội tâm trở ra ngoại cảnh, nhập cảnh vào tâm,
hiện tâm thành cảnh. Trong trời Thơ biến hiện, Tâm Cảnh nhất như.
Anh
có đồng ý?
Và
vì tiếng chuông không nghe mà chỉ thấy, nên đề tài thơ bỏ từ Tiếng mà chỉ đề là
Chuông Khuya.
Thế
là tất cả đều ổn thoả. Và từ đây trong Đọng
Bóng Chiều, Chuông Khuya sẽ thay thế Bóng Người Thơ đưa về bổn kiển: Một Tấm Lòng.
Việc
sửa đối này gây cho tôi được nhiều hứng thú.
Đó
cũng là nhờ có anh.
Nên
có bức thư này để chia vui cùng anh và để anh giữ làm kỷ niệm.
Đời
Thơ còn dài, ước sao duyên Thơ mỗi ngày mỗi thêm thắm đượm.
Xin chào anh./.