39. KHÔNG CỐ Ý DÙNG ĐIỂN
Nha
Trang tiết Xuân Phân năm Nhâm Tý (1972)
Hải,
Lạc thân mến,
Bài
thơ in trên thiệp Xuân với hoạ phẩm của Vĩnh Ấn do xưởng in của Trung tâm Văn
Hoá Phật giáo Việt Nam tại Paris thực hiện nhân dịp Tết Nhâm Tý, là bài Nhớ Em
trích trong Mộng Ngân Sơn:
Thiêm thiếp
lòng mong đợi
Vùng nghe
chim tích linh
Vội vàng xô
gối dậy
Đầy thềm hoa
tử kinh
Đây
là một bài thơ tức sự, một bài thơ ngẫu đắc. Bài thơ ra đời thời kháng chiến
chống thực dân, lúc tôi tản cư ở Phú Phong, Bình Định. Tôi nhớ là mùa hè năm
Quí Tỵ (1953), mùa hoa Tử Kinh nở thạnh.
Lúc
bấy giờ đường giao thông bị cắt đứt. Đã hàng năm mà tôi không gặp bào đệ Kiến
Đạo. Nỗi nhớ thương, mong đợi, mãi canh cánh bên lòng.
Một
hôm trời vừa tảng sáng đương nằm nghỉ, chợt nghe chim khách reo rồi lại reo. Lòng
mừng khấp khởi, tôi vụt đứng dậy chạy ra thềm. Nhưng đợi suốt ngày không thấy, ngày
hôm sau, hôm sau nữa cũng không thấy, không thấy người, không thấy tin. Nhìn
hoa Tử Kinh nở đầy thềm, tôi ghi lại chút lòng chờ mong thương nhớ.
Đó
là tâm sự chớ không phải văn chương.
Thời
hậu chiến, hồi cư về Nha Trang, gặp Phạm Công Thiện, tôi đưa bài Nhớ Em cùng một số ngũ tuyệt khác của
tôi cho xem. Năm 1964, Phạm quân ở Nam Đô gởi cho tôi một bức thư chép lại bài
Nhớ Em với niềm chiếu cố: "Mấy năm trôi qua, bài thơ trên vẫn làm tôi bỡ
ngỡ, kinh ngạc và cảm thấy lạ lùng đi vào thế giới tinh khôi mà tôi đã đánh mất
giữa hố thẳm và sương mù".
Tôi
mừng cho bài thơ không đến nỗi vô mệnh, vì đã có tri âm.
Trên
đời được 1 tri âm cũng đã khỏi bị sống bơ vơ. Hạnh phúc thay! Bài Nhớ Em lại
còn có người bạn thứ hai nữa là Thi Vũ ở Paris. Chính Thi Vũ đã chọn bài Nhớ Em
cho in vào thiệp chúc xuân Nhâm Tý.
Thi
Vũ cho biết: "Bài này thiền lắm. Hơi thơ rất tịnh ở hai câu đầu, hai câu
sau gấp và hùng. Nói ra sự bật nhảy huy hoàng của một Saton. Sự ngạc nhiên hồn
hậu mà cũng là sự kiến tính phiêu vơi. Chọn xong, em đã tự tay sắp chữ, chon
màu, và in cùng bức hoạ Vĩnh Ấn làm thiệp xuân cho Văn Hoá" (thư ngày
4.2.72)
Thi
Vũ cho biết thêm: "Em có gởi bài thơ trong thiệp cho Phạm Duy, đề nghị
Phạm Duy phổ nhạc. Em nói đây vừa là một bài thơ Thiền, vừa là một bài thơ
Tình, và Tình của Đông Phương. Nó có uy lực trả lời và khai thị cho bài Adieu
của Apollinaire, mà Phạm Duy phổ nhạc qua bài Mùa Thu Chết… Anh thử đọc lại xem:
J'ai cueilli ce
brin de bruyère
L'autome est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps
brin de bruyère
Et souviens-t'en
que je t'attends.
(Adieu - Apollinaire)
Bùi Giáng dịch làm mấy bản:
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó.
Hoặc:
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như tơ
Nét mi sầu toả hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước hương thì ngủ yên.
Hoặc …
"Thơ Apollinaire quá
tuyệt. Nhưng buồn ray rứt, đứt ruột. Có nỗi chết chập chờn. Thảm sầu ai oán.
Nhưng không có cái trùng
phùng nơi thinh không. Không còn cái hơi hám cận kề, đeo đẳng, trung thành và
nhập một của Nhớ Em:
Thiêm thiếp
lòng mong đợi
Vùng nghe
chim tích linh
Vội vàng xô
gối dậy
Đầy song hoa
tử kinh.
"Ngọt,
Thơm. Tinh khiết. Bâng khuâng. Nhẹ như một nụ cười thầm kín, mà chỉ có hoa biết
tới trong cơn bình minh" (thư ngày 4.2.72 )
Bài
Nhớ Em bào đệ Kiến Đạo chưa được đọc. Bởi sau ngày thơ ra đời không bao lâu
thì:
Nước chia đôi
nhà cũng chia đôi
Anh Nam
em Bắc bạn phương trời
Chờ mong mộng
luống chìm theo mộng
Thương nhớ
lời không dám rỉ lời
Mòn mỏi niên
quang hoa lá rụng
Bẽ bàng tâm
sự nước mây trôi
Những đêm ánh
sáp ngời trang sử
Sùi sụt dòng
thu sóng biển khơi.
Kiến
Đạo tuy chưa đọc, song Phạm Công Thiện đã đọc, Thi Vũ đã đọc, đọc với tấm lòng
thương yêu, thương yêu thơ, thương yêu người.
Như
thế văn chương không đến nỗi vô mệnh mà người không đến nỗi cô đơn.
Mới
đây ông bạn già Trần Thúc Lâm, sau khi đọc bài thơ trong thiệp xuân, đến nửa
khen nửa đùa:
-
Chỉ có 4 câu 5 chữ mà dùng đến hai điển: Tích linh và Tử kinh. Không trách Linh
mục Thích bảo anh mắc bệnh hay chữ khi phê bình Mùa Cổ Điển (3) và Vũ Ngọc Phan
chê anh là cầu kỳ khi phê bình Đêm Thu Nghe Quạ Kêu (4).
Tôi
giật mình. Tích linh là tên chữ của chim khách. Tử kinh là giống cây có hoa
từng chùm màu hồng, người mình thường trồng trước sân, bên thềm. Ở thôn quê
Bình Định (5) không nơi nào không có. Những cảnh vật đem vào thơ là những cảnh vật
trước mắt. Khi làm thơ tôi không hề nghĩ đến điển, mà lâu nay cũng không bao
giờ nghĩ đến điển. Trần quân nhắc, mới nhớ:
-
Tích Linh: Cổ thi có câu: "Tích Linh
tại nguyên. Huynh đệ cấp nạn" ý nói anh em thương yêu giúp đở nhau như
chim tích linh cùng bay cùng kêu nơi gò đống.
-
Tử Kinh: Điền Chân có ba anh em chung sống với nhau vui vẻ. Bỗng đổi lòng, bèn
chia của để ra ở riêng. Của chia xong, còn một cây tử kinh ở trước sân, anh em
toan đốn xuống chia ba. Chưa kịp ra tay thì cây thoạt héo. Chân trông thấy bèn
than cùng hai em:
-
"Cây vốn cùng một gốc, nghe nói phân chước mà tiều tuỵ! Người thật không
bằng cây!"
Người xưa thường dùng hai điển nầy để nói về anh em. (6)
Hải, Lạc thân mến,
Đối với bài Nhớ Em, không cố ý làm thơ mà nên thơ, không cố tâm dụng điển mà có điển, điển chẳng những hợp với tình mà còn hợp với cảnh, thơ chẳng những chứa vị thơ mà còn ngấm vị đạo.
Thật là chuyện bất ngờ!
Tôi
chợt nhớ đến những câu trong bài ca trù Vịnh
Thuỷ Tiên của Phan Sào Nam tiên sinh:
Vô tình mới
thật hữu tình
Ơn người giới
thiệu cho mình gặp tiên
Cách Bồng lai
Phương trượng bấy nhiêu niên
Mừng tái kiến
lại não nùng duyên nợ cũ…
Lòng tự nhiên
sanh bồi hồi ảo não!
Thôi
chào Hải, Lạc.
_____________________
(1)
Báo Vì Chúa 1941
(4) Nhà Văn Hiện Đại.
(5) Ở Khánh Hoà cũng có nhiều
(6) Sách Từ
Nguyên có dẫn.
40. GIÁ TRỊ CỦA TẶNG PHẨM
Nha Trang tiết Thanh Minh năm Nhâm Tý.
40. GIÁ TRỊ CỦA TẶNG PHẨM
Nha Trang tiết Thanh Minh năm Nhâm Tý.
Em
An Xuyên,
Người
xưa cũng như người nay thường mượn tặng phẩm để biểu thị tâm tình. Nhưng hai
bên có điểm khác nhau: Người nay thường quí tặng phẩm vì giá trị của bản thân
tặng phẩm hơn là tấm lòng của người tặng gởi gắm ở bên trong. Đối với người
xưa, tặng phẩm chỉ là cái móc, cái móc hữu hình để treo bức tranh lòng, bức
tranh vô hình và vô giá. Cái móc ấy bằng vàng, bằng ngọc càng quí, mà bằng thau
bằng gỗ cũng không sao, miễn treo được bức
tranh lòng là quí. Cho nên người xưa nhìn tặng phẩm chỉ thường nhìn vào chiều
sâu chớ ít khi chú trọng đến bề nổi. Và tặng phẩm được quí trọng, được nâng
niu, là quí trọng nâng niu tấm lòng người tặng, chớ không phải vì giá trị của
vật tặng dù cao đến đâu.
Một người bạn ở Giang Nam nhớ người bạn ở Lũng Đầu. Nhân đi bẻ mai về gặp người phu trạ quen, bèn gởi tặng một cành mai và một bài ngũ tuyệt:
Một người bạn ở Giang Nam nhớ người bạn ở Lũng Đầu. Nhân đi bẻ mai về gặp người phu trạ quen, bèn gởi tặng một cành mai và một bài ngũ tuyệt:
Chiếc mai
phùng dịch sứ
Ký dã Lũng
Đầu nhân
Giang Nam vô
sở hữu
Liêu tặng nhất chi xuân
Nghĩa là:Liêu tặng nhất chi xuân
Bẻ mai vừa gặp trạm
Gởi nhắn bạn Lũng Đầu
Giang Nam không của cải
Một cành xuân tặng nhau.
Gởi nhắn bạn Lũng Đầu
Giang Nam không của cải
Một cành xuân tặng nhau.
Tặng
phẩm cũng như thơ, thơ cũng như lòng, ngó thì không có gì cho lắm, mà ngẫm thì
thật là nhiều, nhiều không sao kể xiết! "Giang Nam không có của".
Không có của là không có của riêng. Tức là những gì ở trên đất Giang Nam đều là
của chung của thiên hạ, của chung của trời đất. Tất cả là một. Một là tất cả. Gởi
cho bạn một cành xuân, tức là gởi tất cả trời xuân của Giang Nam, trong đó có
lòng người gởi, đến cho bạn. Không phải tri âm, dể gì đã nhận thấy trong những
nét đơn sơ của hoa mai ngậm chứa bao nhiêu niềm thâm hậu của người xa, trong
những lời thanh đạm của bài thơ ẩn náu bao nhiêu nỗi thiết tha của tình bạn.
Phan
Lan Như đời Thanh là một thi nhân có danh vọng. Trong huyện có một mỹ nhân tuyệt
sắc. Chàng để ý nhưng không được nàng đáp tình. Một hôm chàng cắt một nhánh mẫu
đơn vừa nở, sai một tiểu tỳ đưa tặng với 4 câu thơ:
Phong chi lộ nhị dạ sơ khai
Kim tiễn thương lương mật xứ tài
Vị tăng mỹ nhân phương chiếc nhữ
Giã ưng tiếu nhập thủ trung lai.
Nghĩa là:Vị tăng mỹ nhân phương chiếc nhữ
Giã ưng tiếu nhập thủ trung lai.
Nhị sương nhánh gió đêm vừa nở
Khóm nhặt lăm le chiếc kéo vàng
Lòng tặng giai nhân riêng hái đó
Trong tay mong gởi nụ cười sang
Khóm nhặt lăm le chiếc kéo vàng
Lòng tặng giai nhân riêng hái đó
Trong tay mong gởi nụ cười sang
Nhánh
hoa vừa nở kia tượng trưng cho mảnh phương tâm của thi sỹ. Mảnh phương tâm này
cũng như nhánh hoa kia, bấy lâu vẫn dấu kỹ nơi "mật xứ". Nay vì mỹ
nhân mà cắt ra một mảnh để dâng lên hầu mong tiếp được một nụ cười thơm thắm.
Nhưng nụ cười đó, nếu giai nhân có thương mà tặng, thì thi nhân vẫn không dám
trực tiếp đón nhận, mà chỉ ân cần đón nhận qua bàn tay trung gian.
Tình
thật đẹp, ý thật cao, thái độ cũng thật tao nhã. Nếu không quá cố chấp, giai
nhân nỡ tiếc chi một nụ cười.
Phan
Như Lan gởi quà đi, lòng mong có quà lại. Uông Phu Nhân đất Dương Châu, cũng
như người bạn đất Giang Nam, gởi vì yêu mà gởi, vì nhớ thương mà gởi, tức là
gởi tặng phẩm vì người chớ không phải vì mình.
Uông
Phu Nhân người đời Thanh. Chồng bà đi tòng chinh, lâu ngày chưa được về. Nhân
có người ra biên tái, bà bẻ một nhánh hoa trong vườn kèm một bài thất tuyệt,
gởi ra tặng chồng:
Thủ chiếc ba
chi thuý đại tần
Ân cần dục ký
viễn chinh nhân
Minh tri đáo
nhật ưng tiều tuỵ
Tức thử ba
chi kiến thiếp thân.
Nghĩa
là:
Nhành hoa tay
bẻ mày nhăn
Sa trường
thăm thẳm ân cần gởi trao
Tới nơi héo
nhuỵ phai đào
Chàng ơi,
thân thiếp khác nào thân hoa!
Thương
thảm bao la! Mỗi hàng thơ mỗi dòng lệ! Người nơi chiến địa dù bị khói un lửa
đốt vẫn không thể ngăn nổi trào lòng trước hình bóng người vợ qua màu hoa nét
thơ.
Một
cành hoa - dù là quốc sắc thiên hương - quí sao bằng kim cương, hồng bảo, hoàng
kim, bạch kim. Nhưng đối với thi nhân, với cổ nhân, lại quí gấp nghìn muôn lần
bảo vật của thế gian, bởi có lòng của người thân yêu gởi gắm.
Song
những cành hoa kia, nhờ có thơ nói rõ lòng người tặng. Có nhiều khi tặng phẩm
không có thơ đi kèm, thì người nhận phải tinh ý mới khỏi phụ lòng người tặng.
Tôi
xin kể cho em nghe một câu chuyện chứng minh lời nói của tôi. Câu chuyện xảy ra
nơi tỉnh nhà cách đây chừng hai thế kỷ, dưới triều vua Thái Đức (Tây Sơn).
Dưới
triều vua Thái Đức (1776-1792) tại huyện Tuy Viễn (Tức Bình Khê hiện nay) có
chàng thư sinh họ Trần tự Chánh Thuận, có sỹ hạnh, có văn tài, nhưng nhà nghèo
và mồ côi sớm. Chàng yêu người con gái của một phú ông cùng huyện và hẹn khi
thành danh sẻ làm lễ điện nhạn. Người con gái tên Nhược Lan, dung nhan tươi
sáng, đã thạo nghề kim chỉ lại thạo cả bút nghiên. Nàng có con thị tì tâm phúc
tên Thuỵ Khê, làm giả đi về giữa nàng và Chánh Thuận
Năm
Nhâm Dần (1782) vua Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh quân Nguyễn Phúc Ánh. Chánh
Thuận phải tòng chinh. Ra đi không chắc có ngày về, chàng bèn giao nhà cửa cho
người chú họ. Vật quí không có gì khác hơn là một chiểc trâm vàng và một chiếc
vòng bạc. Để đền công cho Thuỵ Khê bấy lâu hết lòng phục vụ, chàng tặng chiếc
trâm vàng. Và để làm vật kỷ niệm của lòng yêu đương chàng tăng Nhược Lan chiếc
vòng bạc. Cảnh biệt ly nảo nùng như sao, đau đớn như sao. Không sao kể xiết!
Nhưng
chỉ nửa năm sau khi chàng đi thì Nhược Lan đem quăng chiếc vòng bạc xuống giếng
nơi nhà chàng và đuổi con thị tì tâm phúc Thuỵ Khê, rồi về làm vợ chàng công tử
con 1 quan cai cơ ở trong hạt. Song không được bao lâu, vợ chồng phải bỏ nhau
vì khác lòng khác ý. Nàng về ở cùng cha mẹ, suốt ngày không bước ra khỏi sân.
Tòng
quân được ba năm thì Chánh Thuận được giải ngũ. Về nhà biết được sự tình, chàng
vô cùng chua xót. Nghe tin có người vớt được chiếc vòng bạc, chàng tìm đến xin
chuộc lại. Người đó đòi 5 lượng vàng. Chàng không đủ tiền để mua vàng, toan bán
vườn nhà cho đủ số. Song còn phân vân chưa quyết vì bán một vật cũ để chuộc một
vật cũ, thì mất vẫn như nhau. Người được vòng thương tình liền đem vòng đến cho
lại:
- Đó là của gia truyền thì
lòng tham không nên giữ.
Chánh
Nhuận mừng rỡ, đến tìm Nhược Lan. Nhược Lan đóng cửa không tiếp. Đến tìm Thuỵ
Khê. Thuỵ Khê đã theo chồng đi xa. Bồi hồi áo não. Chàng toan bỏ làng đi tìm
khuây khoả, thì người bạn đồng môn là Phạm Thúc Luân đến thăm hỏi:
-
Vì sao chàng quí bạc hơn vàng và lại tặng vòng cho người yêu, tặng trâm cho
người ở?
Chàng
thở dài:
-
Tôi quí vật là quí những gì tiềm ẩn ở bên trong chớ đâu có quí giá trị ở bên
ngoài. Chiếc trâm vàng kia vốn của tôi lượm được tình cờ. Không biết chủ là ai
để giao hoàn, nên tôi đành phải giữ lấy. Đối với tôi không phải là bảo vật, nên
mới đem tặng Thuỵ Khê để đền chút công ơn. Còn chiếc vòng bạc là của ông thân
tôi tặng bà thân tôi. Bà thân tôi theo ông thân tôi về chín suối, trao lại cho
tôi. Từ nhỏ đến lớn tôi đeo nơi tay không bao giờ rời một giây một phút. Nhưng
ra ngoài chiến địa mấy ai chắc về, nên tôi cởi tặng Nhược Lan, trước là để khỏi
sợ rơi vào tay kẻ khác, sau là để trong nơi xa cách thấy của như thấy người. Đó
là tấm chân thành của tôi. Không hiểu tại sao nàng lại nỡ ruồng rẫy? Nỗi niềm
không tỏ, nhưng tường ngăn, cống lấp, muốn hỏi không biết hỏi ai?
Thúc
Luân vốn là anh em cô cậu cùng Nhược Lan, nên không mấy chốc lời nói của Chánh
Thuận đã lọt đến tai nàng. Nàng khóc lớn:
-
Vì không xét sâu nghĩ chín mà tôi đã phụ rẫy một mối tình cao đẹp, và đối xử
bất công cùng người giúp việc trung thành! Trời cao đất dày, tôi còn mặt mũi
nào trông thấy thiên hạ!
Đoạn
toan gieo mình xuống giếng tự vận. May người nhà ngăn lại kịp. Nàng bỏ ăn uống,
nằm thiêm thiếp không một tiếng nói, không một lời than.Thúc Luân bắn tin cho
Chánh Thuận hay. Chánh Thuận vội vả tìm đến. Cha mẹ Nhược Lan hết sức vui mừng
và quyết định sẽ ra tay tác hợp nếu hai bên còn thương tưởng nhau. Chánh Thuận
cạn lời an ủi Nhược Lan. Cảm tấm chân thành của cố nhân, nàng nghẹn lòng trong
nước mắt:
-
Một hôm tình cờ em trông thấy Thuỵ Khê cầm chiếc trâm vàng ngắm nghía. Hỏi ra
thì là quà tặng của chàng. Em tưởng rằng giữa chàng và Thụy Khê đã có tình dan
díu, Và đem vàng so với bạc, em lại hiểu lầm rằng chàng quí Thuỵ Khê hơn em.
Lòng ghen tức nổi lên, em không còn phân biệt phải quấy. Nay lượng chàng dù
rộng thứ, lòng em vẫn riêng hổ với lòng.
Mọi
sự do hiểu lầm mà ra thì không có gì đáng trách. Huống nữa hành vi của tôi vẫn
có chổ khuyết hám dễ khiến lòng lầm lẫn trắng đen. Nhưng việc đã qua cứ để cho
qua. Chúng ta nên giữ những gì còn lại. Tình thương yêu nhau sẽ xoá nhoà tất cả
những gì không tốt đẹp do hoàn cảnh gây nên.Tủi buồn không giúp ích gì cho lẽ
sống.
Thế
là trời xuân xanh trở lại, và tình yêu thương nối dài theo nhịp bước của thời
gian.
Em
An Xuyên,
Chắc
em không khỏi phàn nàn:
-
Phải chi Nhược Lan được giải thích rõ ràng khi nhận tặng phẩm, thì có đâu phải
chịu bao nhiêu năm đau khổ, và làm đau khổ người giúp việc lẫn người yêu.
Tôi
xin phúc đáp:
-
Người tình tế nhị cũng như người thơ thâm thuý, ưng che dấu nỗi lòng, càng kín
càng hay. Và tự nhiên không bao giờ đem tình mình, thơ mình ra giải thích. Tìm
những cái hay cái đẹp để yêu để thương, để nâng niu gìn giữ, là bổn phận của
người nhận thơ nhận tình. Và có thấu triệt được những gì ẩn tàng cũng như hiển
hiện thì mới gọi là tương tri tương đắc, tri kỷ tri âm. Bằng không thì cần chi
Bá Nha phải đập đàn khi Tử Kỳ không còn trên trần thế.
Nói
tóm lại: Những cái ẩn tàng mới thật là những cái đáng quí. Cho nên khi em nhận
vật tặng của người yêu, mà người yêu ấy thuộc vào hàng phong nhã, thì em không
nên xem nặng giá trị vật chất, mà phải đi sâu vào giá trị tinh thần. Đừng vì vẻ
tầm thường ở bên ngoài mà không nhận chân được niềm cao sang ấp ủ. Em có hiểu
tình của người thơ được trọn vẹn, mới hiểu được trọn vẹn những tình ý trong thơ
của người yêu, nếu em đã trót lựa người
yêu trong hàng phong nhã.
Xin chào em./.