41. VĂN CHƯƠNG TẠ LÒNG
Nha Trang tiết Lập Hạ năm Nhâm Tý (1972)
Chị Mỹ Dung
Trong bức thư Lời Hẹn Ước gởi cho Hồng Loan năm Kỷ Hợi
(1959) có câu:
Duyên em trái
đã nặng cành
Kiếp này khôn
dễ nối tình Ngọc Tiêu (1)
Đó là một câu thơ trích nơi "Bức Văn Chương"
của chàng thơ Biển Nại gởi tạ lòng cố nhân.
Hồng Loan và tôi vốn quen biết hai người ấy.
Hai người ấy yêu nhau thời tiền chiến. Rồi thời thế
đổi thay, nàng đi lấy chồng. Từ ấy phần nước non xa, khói lửa nhiều, hai bên
không gặp được nhau, không gặp nhau cả trong giấc mộng.
Nghĩ đến nàng, chàng có bài Thay Bông
Gặp chàng
đương độ lý đào bông
Đào lý thay
bông thiếp có chồng
Tình nhạt dần
theo hương phấn nhạt
Âm thầm giọt
lệ khóc đêm đông.
Thời hậu chiến, may đâu lại tái ngộ. Trong lúc chuyện
trò, chàng buột miệng ngâm:
Nghĩa trước
phụ phàng thôi đã lỡ
Duyên sau hò
hẹn nữa mà chi.
Chàng liền hối hận rằng mình vừa tàn nhẫn vừa thô lỗ.
Nhưng nàng không hờn cũng không giận, nên sau đó nàng có thư thăm. Trong thư
chép lại hai câu kia và thêm hai câu nữa:
Vườn dù nở rộ
trà my
Chút lòng sau
trước hoa quỳ hướng dương.
Bùi ngùi, soạn "Bức Văn Chương" gởi vào tạ
lòng:
Duyên em trái
đã nặng cành
Kiếp này
không dễ nối tình Ngọc Tiêu
Chuyện xưa để
nước lui triều
Nhắc chi thêm
tủi nghĩ nhiều thêm thương
Nợ dâu tằm
chửa hết vương
Xe tơ dệt bức
văn chương tạ lòng.
Thế là tốt! Vì "ba sự liễu" rồi (3) nếu lòng
hoa quỳ có còn nhớ bóng dương thì nên hướng về văn chương là thứ bất diệt kia
vậy.
Chắc chị không khỏi thương cô nàng và trách anh chàng.
Thương cô nàng đa tình, trách anh chàng bạc tình.
Thưa chị:
Bạc tình là
thói đàn ông
Đa tình là
nghiệp má hồng xưa nay.
Đó là tánh trời sanh. Nếu có thương có trách thì nên
tìm cái gốc mà thương mà trách, chớ cô nàng và anh chàng chỉ là cái ngọn.
Huống hồ:
Trăm năm
không kẻ bạc tình
Nghìn thu ai
biết lòng mình thuỷ chung.
Cho nên trước
khi sinh ra những thói si tình, đa tình, chung tình, bạc tình… chắc là trời đã
suy đi nghĩ lại kỹ lắm. Và dù Si dù Đa dù Chung dù Bạc... dù chi chi đi nữa,
rốt cuộc tình vẫn là tình.
Chữ tình là
chữ chi chi
Anh hùng hào
kiệt nhiều khi cũng tình
Cung xanh khi
thả bọn mình
Trời cao đã
bắt mang tình mà đi
Chữ tình là
chữ chi chi
Càng văn
chương lắm càng si vì tình…(4)
Anh chàng kia vốn là khách văn chương. Tình anh chàng
không đến nỗi bạc đâu. Chị đừng trách mà tội nghiệp. Anh chàng vốn si vì tình.
Nhưng tình si mà trí tỉnh. Cho nên không để lòng lôi cuốn vào con đường khó tới
khó lui đó thôi.
Tâm phải luôn luôn đi đôi với trí mới khỏi bị vướng
vào cảnh "giây rơm gánh đá", ân trước thù sau.
Theo thiển ý, sống trong trường tình cũng như sống
trong trường thơ, suy tư là điều cần thiết.
Nhưng đứng trong địa hạt thơ, sao lại nói dông dài về
tình như thế này? Đó cũng tại chị, tại chị đem một câu thơ dính đến một mối
tình ra mà hỏi. Hỏi thì phải nói. Bởi cổ nhân dạy: Gặp người không đáng nói mà nói thì mất lời. Gặp người đáng nói mà
không nói thì mất người.
Không muốn mất người nên tôi không dám không nói.
Mong chị thông cảm. Thông cảm cho phần tôi, thông cảm
cho anh chàng cam tạ lòng cố nhân bằng bức văn chương, chớ không dám tạ lòng
bằng chút tình xưa nghĩa cũ.
_________________________
(1) Xem Lời Hẹn Ước
ở trước
(2) (3) Cổ thi: Khai
đáo trà my ba sự liễu. Nghĩa là: Đến khi hoa trà my nở rồi thì công việc về
hoa chấm dứt. Tức là hết mùa hoa (hoa trà my nở muộn hơn các hoa, nở cuối xuân)
(4) Không nhớ tên tác giả.
42. VĂN CHƯƠNG VÀ NGHÈO KHỔ
Nha Trang tiết Hạ Chí năm Nhâm Tý (1972)
Chị Thu Trang,
Tôi không nhớ rõ tác giả câu:
Con ơi chớ
lấy chồng thi sĩ
Nghèo lắm con
ơi khổ lắm con.
Là Nguyễn Bính hay Đinh Hùng. Mà của ai, của họ Nguyễn
hay họ Đinh, câu ấy vẫn là "nguyên tắc rút nơi kinh nghiệm bản thân"
vẫn là "lời tâm huyết" của người lịch duyệt Bởi Nguyễn Bính cũng như
Đinh Hùng đều là hai thi nhân chính cống "nghèo lắm con ơi khổ lắm
con"
Từ xưa đến nay các thi nhân có tài thường bị nghèo
khổ.
Trước kia có Tố Như tiên sinh:
Thập khẩu đề
cơ Hoành lĩnh Bắc
Nhất thân
ngoạ bệnh Đế thành Đông.
Nghiã là:
Mười miệng
đòi cơm ngoài cõi Bắc
Một thân nằm
bệnh góc thành Đông. (1)
Gần đây ngoài Đinh Hùng, Nguyễn Bính, có Tản Đà, Hàn
Mặc Tử… đều là những tài tử đa cùng.
Có phải vì văn chương sinh nghiệp chướng chăng?
Về điểm này, trong bài tựa cho tập thơ của Mai Thánh
Du đời Tống, Âu Dương Tu đã nói rõ:
" Tôi nghe người đời nói: Thi nhân ít người thành
đạt mà lắm kẻ khốn cùng. Phải như vậy chăng? Chỉ là vì những bài thơ được
truyền tụng phần nhiều đều do người cùng khổ đời xưa làm ra. Phàm kẻ sĩ có điều
gì uẩn súc mà không đem thi hành được ở đời, đều muốn phóng lãng ở ngoài cảnh
núi gò sông bến, ngắm hình trạng cá sâu. thảo mộc, gió mây, điểu thú, thường
xét cái kỳ quái của những vật ấy, mà trong lòng lại uất tích những ưu tư cảm
phẩn, mới phát ra lời oán hận, che bai, để than thở cho ngưỡng kẻ ky thần, quả
phụ, mà tả những cái khó nói của nhân tình. Vậy đời càng khốn thì thơ càng hay.
Không phải thơ làm cho người ta khốn cùng, mà chính vì có khốn cùng rồi thơ mới
hay… (2)
" Không phải thơ làm cho người ta khốn cùng, mà
chính vì có khốn cùng rối thơ mới hay". Đã biết rõ như thế, nhưng khi bị
khốn cùng, thi nhân vẫn không khỏi có ý oán văn chương:
Thảo ngay
trải dạ với đời
Văn chương chẳng lẽ luỵ người thế ư? (3)
Tô Đông Pha, một bát đại văn chương, bị bọn gian thần
đời Tống đem thơ văn ra sàm tấu cùng vua mà hết bị tù đến bị đày, nên có một
tuyệt:
Thế gian sanh
tử vọng thông minh
Ngã bị thông
minh ngộ tử sinh
Đản nguyện tử
tôn ngu thả độn
Vô tai vô hại
đáo công khanh.
Nghĩa là:
Sanh con
người ước thông minh
Mình thông
minh hoá ra mình khổ thân
Nguyện sao con cháu ngu đần
Không tai không nạn mới lần công khanh.
Không thông minh thì làm gì có
được thơ hay văn hay. Mà không có văn hay, thơ hay thì mới có chỗ để chứa sự
ham muốn công danh quyền vị. Mà có công danh quyền vị thì mới được vinh thân
phì da, tức là mới khỏi "nghèo lắm con ơi khổ lắm con"
Cho nên lòng mong con cháu ngu
lại độn cũng là "kinh nghiệm bản thân" của nhà thơ chân chính.
Xưa cũng như nay đã đem kinh
nghiệm bản thân đưa ra cho đời thấy, thế mà trên đời vẫn còn nhiều người ưng
trở thành thi nhân và có nhiều người yêu quí thi nhân. Có nhiều bà vợ trong nhà
không còn một đồng một chữ để làm cho đỏ lửa nơi đông trù, thế mà thấy chồng
không có rượu để nhấm thơ, lại đem cầm cả món hồi môn còn sót lại:
Ái quân bút để hữu yên hà
Tự bạt kim
thoa ký tửu gia
Tu đáo nhân gian
tài tử phụ
Mạc hiềm
thanh sấu tợ mai ba.
Nghĩa là:
Yêu chàng bút
đọng ráng mấy
Trâm vàng đổi
rượu lòng đây tặng chàng.
Khéo tu được
xuống trần gian
Sánh đôi tài
tử muôn vàn duyên may
Phấn hương
riêng đượm tháng ngày
Chi hiềm
sương gió hao gầy vóc mai.
(quên tên tác giả)
Đã không than nghèo khó mà còn cho rằng kiếp xưa khéo
tu nên kiếp này mới được sánh duyên cùng kẻ tài tử. Lòng yêu văn chương đến thế
thật là hiếm có. Mà cũng nhờ những lòng hiếm có ấy mà trên đời còn có người cam
chịu nghèo khó cùng văn chương:
Bách niên
cùng tử văn chương lý
Lục xích phù
sinh thiên địa trung
(Nguyễn Du)
Nghĩa là:
Văn chương
thác vẫn đèo bòng
Thân trôi nổi
mãi trong vòng kiền khôn
Và lại có
người còn cao hứng ngâm to:
Giai nhân là
báu của trời
Thi nhân là
báu của người giai nhân
(Thơ Bút Trà)
Báu của Trời thì còn gì báu hơn. Không phải nói khoác.
Cảnh giàu sang trên đời có ai hơn vua chúa. Nhưng có vua chúa nào giữ mãi được
giàu sang cho đến ngoài trăm năm. Trái lại thi nhân tuy nghèo khổ, nhưng văng chương
lại nuôi sống thi nhân đến nghìn thu, muôn thu, đến ngoài nghìn thu, muôn thu:
Khuất Bình từ
phú huyền nhật nguyệt
Sở vương đài
tạ không sơn khâu
(Lý Bạch)
Nghĩa là:
Đền đài vua
Sở: Gò xanh
Trời trăng:
Từ Phú Khuất Bình treo cao.
Chị Thu Trang,
Như thế, chị khuyên lũ con gái chị nên lấy chồng thi
sĩ hay không nên lấy chồng thi sĩ? Và chị sẽ cho lũ con trai chị làm "của
báu" của đời giai nhân hay là nguyện chúng sẽ ngu thả độn để đi đến công
khanh./.
_________________________________________________
(1) Thơ Nguyễn Du
(2) Lời dịch của Nguyễn Hiến Lê trong Cổ Văn Trung Quốc
(3) Thơ trong Nhánh
Lục của Q.T