Đôi nét cương yếu về thi học [7] [8]




7.

Nói chuyện cùng các em học sinh, lão tự thấy mình trẻ trở lại. Nhưng ngót mấy tháng nay không biết vì sao vì mắc lo học thi tấn ích chăng hay đã chán nghe chuyện về thơ cũ mà không có một em nào quen hay lạ đến thăm Vườn Hoa Thơ. Lòng lão thấy nhớ lạ!
Đương ngồi nghĩ vẩn vơ thì bóng dáng tươi xinh của tuổi xuân bị chòm râu nửa xanh nửa trắng của ông bạn Thúc Luân làm tan biến mất! Lão bật cười:
Mơ trẻ thấy già duyên cắt cớ!
Khôn qua lú lại nợ loanh quanh!
Dường như ông bạn không để ý đến câu khẩu chiếm của lão, nên vừa ngồi xuống thảm cỏ dưới bóng bạch ngọc lan, liền cười tích toác:
-  Hôm trước mình sợ lão vườn cùng họ Lý chê dốt thi pháp, nên có nhiều điều muốn hỏi mà không dám hỏi.
-  Nghiền ngẫm những áng văn chương truyền thế, cổ nhân rút ra được những bút pháp tinh diệu, viết thành sách để giúp đời. Chúng ta đã học được bao nhiêu, hiểu được bao nhiêu? Chẳng qua gặp đâu nói đó cho vui vậy thôi. Đường xa diệu vợi, kẻ đi được vài ba cây số đã thấm gì mà dám lên mặt cùng kẻ đủng đỉnh theo sau.
Thúc Luân gật đầu:
-  Một bài thơ bát cú gồm có khởi thừa trạng luận chuyển kết. Tôi nhận thấy Lão Vườn, khi nói chuyện, ít dùng những tên kia mà lại thường gọi khai thừa chuyển hiệp, hoặc hạm liên, cảnh liên, là ý làm sao?
Biết rằng Đoàn Thúc Luân nhác đọc sách nhưng siêng làm thơ, và thơ có nhiều câu khả ái:
-      Người xúm tranh đành lo việc nước,
Mình riêng thong thả chuốt lời thơ.

-      Đời đục lo sao mình khỏi đục,
Thần linh chưa chắc quỉ không linh.

-      Tơ kéo mưa thu trùng dệt nhớ,
Sen dầm lệ sáp bút sanh thương

-      Non gió lao xao tùng nổi sóng
Hồ trăng lai láng nước đông sương.

-      Cúc vàng nở thạnh vườn sương sớm,
Buồm trắng thưa dần bến trúc xưa.
Lão cười, nói bỡn:
-  Ông bạn thật giống ông Lục Đinh (Jourdain) trong tuồng Trưởng Giả học Làm Sang (Bourgeois Gentilhomme) của Ma Lợi Nhĩ (Molinere) nước Pháp. Lục Đinh làm văn xuôi ngót bốn mươi năm mà không biết rằng mình làm văn xuôi. Còn ông bạn làm thơ đã vượt ra khỏi vòng ngôn ngữ không cần thiết của thơ mà không biết còn muốn trở lại hỏi thăm!
-  Mặc người ta. Người ta hỏi thăm thì mình cứ nói.
-  Người đời Đường đặt ra Luật thơ, nhưng không “phân nhiệm” cho từng câu, chỉ theo thứ tự mà gọi từng cặp: cặp Nhất Nhì, cặp Tam Tứ, cặp Ngũ Lục, cặp Thất Bát. Đến đời Tống trong tập Thương Lang Thi Thoại, Nghiêm Võ gọi là cặp Nhất Nhị là PHÁT ĐOAN, cặp Tam Tứ là HẠP LIÊN, cặp Ngũ Lục là CẢNH LIÊN, cặp Thất Bát là LẠC CÚ. Sang đời Nguyên, trong sách trong sách Thi Pháp Gia Số, Dương Tái chia bài thơ ra làm bốn phần: KHAI, THỪA, CHUYỂN, HIỆP. Qua các đời sau, phần đông khách làm thơ, nhất là hàng cử tử, thường theo đề chớ ít theo hứng, nên mới “coi mặt đặt tên”, gọi cặp Nhất Nhì là câu ĐỀ, có phá đề và thừa đề, gọi tắt là phá thừa, gọi cặp Tam Tứ là câu TRẠNG hay câu THỰC, cặp Năm Sáu là câu LUẬN hay câu BỒI, cặp bảy Tám là CÂU KẾT, có thúc kết và hoàn kết, họi tắt là Chuyển kết.
Thúc Luân cười:
-  Không biết vẫn không hại gì cho việc sáng tác, song đã là khách làng thơ mà không thông thạo ngôn ngữ “bổn kiển” thì chẳng khác người Việt mà nói bập bẹ tiếng Việt như người nước Ngô nước Lào.
Lão ngồi lặng thinh nhìn đoàn bướm lượn hoa. Thúc Luân ngã lưng vào gốc cây Ngọc Lan nhìn ánh nắng “bắt chước những vì sao” ở trên tàn lá biếc… Chợt ngồi dậy hỏi:
-  Trong bài ĐỒNG QUÊ của Lão Vườn, câu “Cỏ thơm người cũ mộng tìm đâu” có dùng điển phải không? Người thì bảo sở xuất là câu cổ thi “Xuân du phương thảo địa”, kẻ lại bảo rằng mượn ý trong câu Sở Từ “Vương tôn du hề bất quy, xuân thảo sanh hề thê thê”. Điển nào trúng?
-  Bài ĐỒNG QUÊ là một bài xúc cảnh sanh tình. Nhân thấy xuân về cố cảnh mà chạnh lòng hoài niệm viễn nhân. Câu thứ 2 không cố tâm dụng điển, làm rồi mới hay rằng điển đã theo hứng mà vào thơ. Nhưng điển tuy được một cách ngẫu nhiên, mà truy nguyên không phải do câu “Xuân du phương thảo địa”,cũng không phải do câu “Vương tôn du hề bất quy...”, vì một bên thiếu người, một bên thiếu mộng.
-  Chớ điển gì?
-  Điển Tạ Linh Vận. Tạ Linh Vận đời Lục Triều có người em họ tên Tạ Huệ Liên, người đẹp trai thơ khác tục. Linh Vận rất yêu quí, thường nói: “Ngồi bên Huệ Liên tự nhiên sanh hứng”. Một hôm Linh Vận ngồi một mình nơi bờ ao nghĩ thơ. Suốt buổi không nảy tứ. Trở về nhà mộng thấy Huệ Liên, tỉnh dậy làm được hai câu đắc ý:
Trì đường sanh xuân thảo
Viên liễu biến minh cầm
Nghĩa là:
Cỏ xuân nảy lục bờ ao
Xanh buông vườn liễu ngọt ngào tiếng chim.
Câu chuyện trở thành giai thoại trong làng phong nhã, và khách làm thơ thường mượn chữ “ trì đường xuân thảo” để diễn ý nhớ tri âm. Trong bài LỮ THỨ TRỪ TỊCH của Nguyễn Du, có câu:
Trì thảo vị lan thiên lý mộng
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân
Nghĩa là:
Chằm cỏ chưa tan ngàn dặm mộng
Sân mai đà đổi một năm xuân.
Thúc Luân:
-  Người thuộc nhiều điển cố thiệt chẳng khác người có tiền sẵn trong mình, khi muốn dùng chỉ có việc thọc tay vào túi.
-  Trong 1 bài thơ, chủ ý là vua, điển cố là kẻ phò tá. Kẻ phò tá có khi phải cầu mới đến, như trường hợp Khổng Minh, nhưng lắm khi thấy vua hiền, tự nhiên tìm đến, như trường hợp Bàng Thống. Lại nhiều khi phải tìm đủ cách mới vời được, song đến chỉ để có đến, đến để choán hết một chỗ ngồi của người khác chớ không giúp được việc gì, như trường hợp Từ Thứ đối với Tào Tháo. Cho nên đừng thấy điển hay mà ham như ham tiền bạc.
Thúc Luận cười:
-  Kẻ nghèo điển ham điển như kẻ nghèo tiền ham tiền. Như tôi đây là một phần tử điển hình.
-  Ông bạn đã sánh điển với tiền, thì nên nhớ lời Tây triết “Tiền là người tôi tốt mà là ông chủ xấu” (L’argent est un bon serviteur mais un mauvais maitre). Cho nên kẻ nắm điển trong tay phải có bản lãnh vững chắc mới khỏi bị điển sai khiến.
-  Lão Vườn có thường bị điển sai khiến chăng?
- Ông bạn có sợ vợ chăng?
-  Sao Lão vườn lại hỏi thẩn thẩn thế?
-  Bởi ca dao có câu:
Không ghen sao phải đàn bà
Có từng sợ vợ mới là đàn ông.
Mỗi khi chất sợ đã nằm sẵn trong người rồi thì bị vợ sai khiến đâu còn biết rằng mình bị sai khiến, lắm lúc còn tưởng rằng mình chủ động là khác. Chỉ người ngoài mới thấy rõ rằng mình có sợ hay không mà thôi.
Thúc Luân vuốt râu:
-  Cứ nhìn đây thì biết .
-  Ông bạn cũng thử nhìn lão.
-  Lão Vườn không râu nên khó đoán. Nhưng nhìn vào thơ thì thấy Lão Vườn thường dùng điển quá!
-  Lão còn sánh điển như cung phi mỹ nữ. Trừ bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng buộc người đi bắt gái đẹp về nhốt đầy cung A Phòng, và trừ các bạo chúa hôn quân háo sắc khác, không nói làm gì. Đến như Lương Nguyên Đế thời Nam Bắc Triều là ông vua mê say đạo vô vi của Lão Trang đến việc nước còn không xem trọng huống hồ sắc đẹp của giai nhân. Thế mà trong cung cũng đầy cả hương phấn, hương phấn do các bề tôi tự ý đưa đến, đưa đến lúc nào nhà vua cũng không biết, đến nỗi thứ phi Từ Chiêu Bội, một tuyệt đại giai nhân, không được nhà vua đoái hoài sanh ra oán giận. Như thế có thể gọi Lương Nguyên Đế là háo sắc chăng?
-  Nói chuyện thường mà cũng dùng điển, huống hồ làm thơ! Như thế bị Vũ Ngọc Phan chê là phải lắm. Chẳng những người trong làng văn chê mà thôi, người ngoài cũng thường trách. Chê trách việc lạm dụng điển cố làm mất sanh khí của thơ, họ lại còn chê trách lão vườn hay đạo văn cổ nhân làm suy yếu sức sáng tạo. Như trong bài XUÂN QUẠNH hai câu nhất nhị:
Thược dược gió bay màu tuý vũ
Hải đường sương tỉnh giấc xuân tiêu.
Trùng với câu trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu:
Liều thược dược mơ màng thuỵ vũ
Đoá hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Lão làm thinh. Thúc Luân gắt:
-  Lão Vườn có thói xấu là không đáp lại những lời chỉ trích. Không nên giở thái độ ấy với bạn. Nghe không?
-  Nghe.
-  Thì cho biết ý kiến.
-  Về việc dụng điển thì lão đã thuyết minh. Còn về việc đạo văn thì xin ông bạn xét lại: Hai câu thơ của lão và hai câu của Ôn Như Hầu chỉ trùng nhau một số chữ. Còn từ tinh 2 tứ đến thanh điệu, phong cách, ý thú.., hai bên đều khác hẳn nhau. Có thể bảo lão phỏng cổ chớ không thể bảo rằng đạo văn. Mà dù có người cho là du đạo cũng không xấu hổ gì, vì trước lão cũng đã có nhiều bậc danh gia “đồng điệu”. Như Đường Nhân Trương Cửu Linh là một. Trương có bài TỰ QUÂN NHI XUẤT HỸ:
Tự quân nhi xuất hỹ
Bất phục lý tàn ky
Tư quân như nguyệt mãn
Dạ dạ giảm thanh huy
Tản Đà dịch:
Từ ngày chàng bước chân đi
Cửi canh bỏ dở nghĩ gì sửa sang
Nhớ chàng như nguyệt tròn gương
Tiêu hao ánh sáng đêm thường lại đêm
Trước Trương, về đời Lục Triều, Trần Hậu Chúa cũng đã có bài TỰ QUÂN NHI XUẤT HỸ:
Tự quân nhi xuất hỹ
Lục thảo biến giai sanh
Tư quân như dạ chúc
Thuỳ lệ trước kê minh.
Tạm dịch:
Từ ngày chàng bước chân đi
Vắng thiu thềm vắng xanh rì cỏ xanh
Nhớ chàng như nến thâu canh
Lệ tuôn đài sáp sầu đoanh tiếng gà.
Cũng đời Lục Triều, Giảm văn Đế có câu:
Thấp hoa chi giác trọng
Túc điểu vũ phi trì
Phỏng dịch:
Cành hoa sương thấm nặng nề
Cách chim chậm chậm bay về nghỉ ngơi
Vi Ứng vật đời Đường lại có câu:
Mạc mạc phàm lai trọng
Minh minh điểu khứ trừ
Phỏng dịch:
Nặng nề buồm trở lại đêm
Bóng theo chậm chậm cách chim về rừng.
Những câu có chỗ tương đồng ấy, câu làm sau cũng như câu làm trước, đều được song song tồn tại trên nghìn thu rồi. Kẻ thức giả đã không nặng lời chỉ trích mà còn khen: “xanh kia khéo nhuộm đượm hơn chàm”. Không lẽ độ lượng người đời nay không bằng người đời trước?
Thúc Luân gật đầu:
-  Đọc nhiều kể cũng có lợi
-  Đọc nhiều không lợi bằng đọc kỹ, mà đọc kỹ không bằng nghĩ chín. Và đọc kỹ nghĩ chín là để rút lấy những tinh ba hầu mở rộng phạm vi kiến văn, nâng cao trình độ nhận thức, và nuôi dưỡng tính tình cho mỗi ngày mỗi thêm sung dật. Chớ nếu dùng sở học để làm thơ thì kết quả chỉ là một mớ sản phẩm đúng phép tắc, giàu điển cố, người đọc muốn chỉ trích không có kẽ hở để đặt ngòi bút, song muốn tìm chân thú chân vị thì dù nhai từng chữ nghiến từng câu rốt cuộc cũng chẳng khác ăn một dĩa thịt bò xào đã bị anh đầu bếp ép lấy hết cả huyết trước khi bỏ vào chảo.




8.

Nghe tin lão ba hoa về thi pháp cùng Đoàn Thúc Luân và Thường Kiến, các bạn quen biết cũ Phong Lâm, Đạo Thành và Lạp Mai kéo nhau đến vườn:
-  Lão Vườn lâu nay dấu nghề! Chúng tôi tưởng lão chỉ có nghề tưới nước đuổi chim cho Hoa Thơ, chớ có ngờ đâu cũng theo việc trồng trỉa bón xới.
-  Vào Vườn Hoa Thơ là để thưởng thức hương thơm sắc thắm, chớ đâu phải để tìm cho biết thứ này thuộc giống nào có họ với giống kia chăng, đâu phải để tìm cho biết đất nào thích nghi với giống nào, phân nào thích hợp với thứ nào… Gặp những ông khách tọc mạch gạn hỏi, không đừng được lão phải thưa qua cho vui câu chuyện vậy thôi.
Lạp Mai:
-  Biết chìu lòng khách như thế đáng thưởng Hoa Mỹ Bội Tinh.
-  Hoa nào đó? Mỹ nào đó?
Đạo Thành:
-  Đừng, đừng! Để được thong thả ngắm hoa thưởng thơ, không nên đả động đến chánh trị.
-  Sao lại sợ chánh trị? Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách kia mà.
Phong Lâm:
-  Ai là “Thất Phu” thì mới “hữu trách” chớ chúng ta đây hoặc là  "Tứ phu”, hoặc là “Đắc phu” thì chỉ có “vô tiễu” thôi. Vậy xin Lão Vườn lo làm nhiệm vụ chiêu đãi viên của vườn Hoa Thơ mà chìu khách đi vậy.
-  Chìu giống gì đây?
Lạp Mai:
-  Nói về Hoa Thơ bát bệnh.
Vì nhận thấy thuyết thanh bệnh xưa nay đã bị nhiều người công kích, nên không mấy khi lão đề cập đến, mặc dù lão vẫn theo như theo một cô tình nhân nghiêm khắc nhưng trung thành… Nay nghe các lão hữu hỏi đến, lão ngần ngại, muốn tìm cách tránh né cho qua.
Lão nhìn Phong Lâm hỏi: - Câu thơ nầy của ai?
Chung một nước non hòn máu đỏ
Chia đôi nòi giống giải sông xanh.
-  Đã biết rồi hỏi chi nữa?
Lão nhìn Đạo Thành hỏi? - Câu thơ nầy của ai?
Thôn xa nắng tắt trâu về chậm
Sông lạnh buồm xuôi gió thổi mau.
-  Của tôi
-  Còn câu nầy:
Có phải đông quân đà mở vận
Xui nên ẩn sỹ cũng theo thời. (1)
-  Của Lạp Mai. Nhưng Lão Vườn cật vấn như thế là có ý gì?
-  Có ý thưa cùng quí lão hữu rằng những câu thơ ấy đều vô bệnh. Mà làm thơ đã hết bệnh rồi thì còn hỏi thăm bệnh nữa mà làm chi?
Đạo Thành:
-  Làm chi cũng chẳng làm chi,
Chẳng làm chi mặc hỏi thì phải thưa.
-  Nếu quí lão hữu muốn biết rành mạch thì nên mua những quyển sách nầy mà đọc :
Thi học Thông Luận của Phạm Huống,
Thi Pháp Gia Số của Dương Tái,
Thi Pháp Nhập Môn của Mân Đàm Du,
Cựu Thi Lược Luận của Lương Xuân Phương,
Vân vân…
Những quyển sách này ở Chợ Lớn có bán, và đã có một vài học giả dựa theo các sách ấy mà viết sách dạy làm thơ bằng chữ Quốc Ngữ, bày bán khắp nơi.
Lạp Mai:
-  Ngồi bên cô tình nhân mà laị nghe nói chuỵên tâm tình bằng máy thu thanh, thì dù giọng kia lời kia du dương đến đâu thanh nhã đến đâu cũng không thích thú bằng được nghe chính miệng người tình thủ thỉ.
Lão ngồi ngẫm nghĩ: - Thơ Cũ đã bị coi thường như chữ Hán, Những nhà Hán học thông hiểu thi pháp của Trung Hoa, thấu rõ bệnh lợi của nghề làm thơ Hoa Việt, không muốn đem sở đắc của mình ra phổ biến làm gì cho thêm phiền. Do đó hơn nửa thế kỷ nay, những người còn luyến tiếc Thơ Cũ mà không thông Hán văn hoặc không gặp được những sách biên khảo về thơ Trung Quốc, rất ít người biết được thấu đáo những qui tắc của Thơ Cũ, ngoài những thể thức thông thường. May mình học lóm được đôi chút của tiền nhân, tưởng cũng không nên hẹp bụng cùng bằng hữu.
Lão ngẩng lên nhìn ba ông bạn: - Trước khi nói đến bệnh, lão xin trình qua về nguyên nhân sanh ra bệnh.
Thúc Luân: - Đừng cà kê. Nói mau đi .
-  Từ đời Hán trở về trước, thi nhân không mấy khi bàn đến âm thanh tiết tấu. Đến đời Nguỵ, Lý Đăng làm sách Thanh Loại, đời Tấn, Lữ Tịnh làm sách Vận Tập, mới gây lên phong trào nghiên cứu thanh vận. Khi đến Tề, Lương thuộc NÂm Triều, Chu Ngung, Vương Dung.. đề xướng thuyết tứ thanh. Thầm Ước, sau khi giảng cứu tinh tường, đặt ra luật Tứ Thanh Bát Bệnh, được phần đông thời nhân hưởng ứng và gây ảnh hưởng lớn đến hậu thế, từ Đường Tống đến Minh Thanh…
Bày ra luật Thanh Bệnh, cổ nhân nhắm mục đích giúp cho người làm thơ sẵn phương tiện để đi đến chỗ hài mỹ của âm điệu. Song vì có nhiều người ham cầu lấy tinh mật, đua giành lấy tế vi, coi thanh luật là “ thiên tử thánh triết” (2), thường chỉ chú tâm đến cái Đẹp của hình thanh, mà quên mất cái Chân của tính, tình, khiến trong hàng thức giả có nhiều người đứng lên phản đối. Như Chung Vinh đời Tề chê luật âm thanh câu thúc thi nhân làm thương tổn đến Chân Mỹ. Người đời Đường là Hàn Sơn Tử chê những người theo thuyết Thầm Ước là “Thanh điệu bài ưu” (3). Và Lý Thái Bạch cho thanh luật là “Thanh điệu bài ưu” (4). Qua các đời sau, đời nào cũng có kẻ khen người chê. Đến cuối đời Thanh thì lời chê lấn lời khen và sang đời Trung Hoa Dân Quốc thì lời chê trở thành lời mạc sát… Một số học giả Việt Nam chịu ảnh hưởng các học giả Trung Quốc, chưa thí nghiệm, chưa thể chứng, đã đưa ra nhiều lời phán đoán, theo lão, không mấy công minh.
Đạo Thành: - Lão Vườn theo phái chê hay phái khen?
-  Lão theo Trung Đạo, không chấp sắc cũng không chấp không.
Phong Lâm: - Theo Lão Vườn thì luật thanh bệnh có bó buộc chăng? có khó chăng?
-  Chưa biết thì thấy khó, chưa quen thí thấy bó buộc. Nhưng khi đã biết rồi đã quen rồi thì chẳng khác người tài xế vững tay lái thuộc đường sá cho xe chạy trên đường Quốc Lộ số 1 từ Nha Trang ra Cựu Thần Kinh  Phú Xuân. Các thứ  bệnh ví dụ như các ngọn đèo Rù Rỳ, Ruột Tượng, Cổ Mã, Đại Lãnh, Cù Mông, Hải Lương, Bình Đê, Hải Vân. Đường đã quen, tay lái đã vững, người tài xế chỉ cần để tâm vào việc lái xe, thì có “thiên thư định mệnh” mới xảy ra việc rủi ro. (5)
Đạo Thành: - Như vậy tám bệnh đã biết rồi thì có thể nhận thấy rõ lắm sao?
-  Nhận thấy dễ dàng như bệnh ngoại thương đối với các vị Bác Sỹ lịch duyệt. Ví dụ đọc câu:
Trời đã sang đầu hạ
Lòng ngỡ đương giữa thu
Hoặc:
Mái tây em thẫn thờ
Dưới hoa anh ngẩn ngơ.
Thì biết ngay là mắc bệnh BÌNH ĐẦU, tức là Bằng đầu.
Còn đọc câu:
Nhớ em đầu nhuộm trắng
Nhưng anh đành ngậm đắng.
Hoặc:
Cửa ải bóng cờ bay
Gió đưa lẫn cùng mây.
Thì biết ngay là mắc bệnh THƯỢNG VỸ, tức là Chỏng đuôi.
Đạo Thành:
-  Bằng vào điểm nào để nhận chứng?
-  Bệnh Bình Đầu mắc phải là do chữ thứ 1 và chữ thứ 2 vế trên cùng một thanh với chữ thứ 1 và chữ thứ 2 vế dưới: Trời và Lòng: Trường bình thanh. Đã và Ngỡ: Trường Thượng thanh. Mái và dưới: Đoản khứ thanh. Tây và Hoa: Đoản bình thanh. Âm điệu của câu thơ nghe bằng phẳng, không êm ái nhịp nhàng. Còn bệnh Thượng Vỹ mắc phải là do chữ thứ 4 và thứ 5 vế trên đồng thanh cùng chữ 4 và chữ 5 vế dưới: Nhuộm và Ngậm: Trường bình thanh. Bay và Mây: Đoản bình thanh. Câu thơ đọc nghe như tiếng xe đương chạy bị hãm vội lại (câu Nhuộm trắng, Ngậm đắng). Hoặc như tiếng nói hụt hơi (câu Cờ Bay Cùng Mây). Đọc xong không còn chút âm ba âm hưởng.
Chỉ chữ thứ 5 vế trên với chữ thứ 5 vế dưới cũng một thanh với nhau cũng bị bệnh Thương Vỹ:
-  Giỏi thay Trần Quốc Toản
   Tuổi trẻ mà can đảm.

-  Vừa mới ra khỏi trường.
   Đã gặp kẻ lỡ đường.
Đọc câu trên, có cảm giác đi vào một ngõ cụt. Đọc câu dưới như đương đi bị chuồi xuống hầm.
Bệnh Bình Đầu và Thượng Vỹ sanh ra là do sự “ngang trái” trong việc hài hoà của hai câu. Nghĩa là có đôi lứa mà ăn ở với nhau không thuận hoà, ăn nằm với nhau không điều độ thì mới sanh ra bệnh. Đến bệnh PHONG YÊU, thì độc thân mà không biết giữ vệ sinh cũng thường mắc phải:
Ngày xuân ngắm liễu tươi
Tháng hạ buồn hoa rụng
Trong câu nào chữ thứ 2 cũng đồng thanh cùng chữ thứ 5. Xuân va Tươi đều Đoản bình thanh. Hạ và Rụng đều trường khứ thanh. Đọc lên nghe thấy hai đầu to chính giữ nhỏ, như lưng ong vè vẽ, ong tò vò… Do đó mà mệnh danh.
Bệnh Phong yêu là bệnh Độc Thân, bệnh Bình Đầu, Thượng Vỹ là bệnh Đôi Lứa. Còn bệnh HẠC TẤT lại là bệnh Tổ Tam Tam, vì phải có một nhóm ba câu mới có thể sanh bệnh: Bệnh sanh ra do chữ cuối của các câu lẽ trùng thanh với nhau:
Gió bấc từng cơn thổi
Từng hàng mây trắng bay
Từng cơn mưa lá đổ
Trong bóng vàng xế tây.
Đọc từ trên xuống dưới một hơi, đến chữ thứ 5 (tức chữ cuối câu 1) và chữ thứ 15 (tức chữ cuối câu 3), thì thấy lời thơ bị gãy ở giữa. Đó là do chữ THỔI và chư  ĐỔ cùng 1 thanh (Đoản Thượng thanh) làm cho âm hưởng dồn lại gây ấn tượng hai đầu nhỏ ở giữa to như đầu gối chim hạc. Nên gọi là bệnh Hạc Tất.
Nhưng nếu chữ thứ 15, tức chữ cuối câu thứ 3, cứ giữ thanh Đoản Thượng, nhưng lựa một chữ đồng vận cùng chữ thứ 5, tức chữ cuối câu 1, thì bệnh trở thành lợi:
Gió bấc từng cơn thổi
Từng hàng mây trắng bay
Từng cơn mưa lá nổi
Trong bóng vàng xế tây.
Thổi và Nổi vần với nhau làm cho bài thơ thêm nhạc. Bài thơ đã hết bệnh mà còn trở thành một thể thơ đặc biệt: Bằng Trắc lưỡng vận thể. (6). Cho nên trong bốn bệnh vừa kể, bệnh Hạc Tất nhẹ nhất, người làm thơ nhiều khi bỏ qua nếu không muốn lợi dụng biến bệnh thành lợi. Còn ba bệnh kia muốn chữa cũng không khó: Chỉ đổi thanh nầy ra thanh khác, hoặc chỉ đổi đoản ra trường, trường ra đoản.
Như chữa bệnh Bình Đầu:
-  Tiết đã sang đầu hạ
Lòng ngờ đương giữa thu.

-  Mái tây em thẫn thờ
Thềm hoa anh ngẩn ngơ. (7)
Chữa bệnh Thượng Vỹ:
-  Nhớ em đầu nhuộm trắng
Nhưng anh đành im lặng.

-  Cửa ải bóng cờ bay
Chờn vờn trong gió mây (8)
Chữa bệnh Phong Yêu:
-  Xuân về ngắm liễu tươi
-  Hạ đến buồn hoa rụng (9)

Lạp Mai: - Tôi có đôi điều muốn thẩm vấn về Âm, nên xin để nói sau. Bây giờ xin nói về bệnh của Vận.
-  Hai bệnh của Vận là Đại Vận và Tiểu vận.
Bệnh Đại Vận do chữ thứ 2 cùng một vần với chữ cuối câu hạ vận:
Anh mời bạn đến chơi
Đông người đã mất vui
Còn bị cảnh sát phạt
Trăm năm tiếng để đời.
Cũng bị bệnh Đại Vận nếu những tiếng bằng ở trên câu không hạ vận mà cùng một vần với vận bài thơ:
Mời muốn mời bạn đến
Đừng quá số năm người
Luật Quốc gia cứng rắn
Mình không nên để người
Trong câu hạ vận mà chữ thứ 1 hoặc chữ thứ 3 cùng 1 vần với chữ cuối câu, cũng bị coi là mắc bệnh Đại Vận:
Luật quốc gia cứng rắn
Không cho đời để ngươi
Hoặc:
Luật quốc gia cứng rắn
Không cho đời để người
Càng nhiều chữ đồng vận cùng vần câu thơ thì bệnh càng nặng:
Luật đời nay dẫu gắt
Người xu thời vẫn chơi
Còn bệnh Tiểu Vận do chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong mỗi câu, nhất là câu hạ vận, cùng 1 vần với nhau:
Thuê thuyền xuống miền đông
Mong cho gặp mặt chồng
Miễn chữ tùng giữ vẹn
Gian khổ ngó như không.
Nói tóm lại là trong khoảng 9 chữ ở trên chữ bỏ vần của bài thơ, không được dùng những chữ đồng vận, bất kỳ vận gì. Bởi có nhiều chữ vần với nhau nghe hơi chướng tai.
Những bệnh về Thanh và Vận, một bên nhờ những dấu chuyển thanh (`’. ? ~), một bên nhờ khuôn âm, mà thành dễ nhận thấy. Còn về hai bệnh của Âm thì nhiều người cho là khó phân biệt. Khó phân biệt bỡi trong các sách dạy làm thơ thường giảng minh về thanh vận chớ ít quyển nói về âm.
Lạp Mai: - Chính vì vấn đề đó mà khi nãy tôi yêu cầu Lão vườn nói về vận trước âm. Bây giờ mong được nghe giải thích về âm trước khi thuyết minh về bệnh.
-  Chữ ÂM chúng ta nói đây nghĩa lý khác với chữ ÂM trong câu “Thanh thành văn vị chi ÂM”, khác với chữ Âm trong câu “Đồng Âm dị nghĩa”.
Cổ nhân dạy rằng: “Đạo làm văn có ba nguyên lý là Hình văn do ngũ sắc tạo nên, là Thanh văn do ngũ âm tạo nên, là Tình văn do ngũ tính tạo nên “Chữ Âm trong câu” “thanh thành văn..” Ý nghĩa giống chữ Thanh văn.
Chữ Âm trong câu “Đồng âm dị nghĩa” gồm cả ba yếu tố của tiếng: Âm Thanh Vận. Ví dụ ĐÔNG là phương đông và ĐÔNG là mùa đông, là hai tiếng của đồng âm mà dị nghĩa.
Còn chữ Âm chúng ta nói đây chỉ là một yếu tố của tiếng mà thôi.
Và cũng như Thanh, Âm chia làm bốn đại loại:
-  Hầu âm, tiếng họng, (sons gutturaux)
-  Thiệt âm, tiếng lưỡi, (sons lingaux)
-  Xỉ âm , tiếng răng (sons dentaux)
-  Thần âm, tiếng môi (sons labiaux)
Mỗi loại chia ra làm nhiều nhánh: Hầu âm thì chia làm Thâm hầu và thiển hầu; Thiệt âm chia làm Thượng Thiệt và Đầu Thiệt; Xỉ Âm chia làm bán xỉ, chính xỉ Nha; Thầm âm chia làm Trọng Thần và Khinh thần. Mỗi nhánh chia ra làm nhiều nhóc. Tính có trên vài chục âm. Chúng ta nhượng việc nghiên cứu lại cho các nhà chuyên môn về ngôn ngữ học. Khách làm thơ chỉ nên phân biệt những tiếng nào chữ nào là đồng âm với nhau để tiện việc sử dụng trong khi làm thơ mà thôi.
Phong Lâm: - Âm và Thanh khác nhau như thế nào?
-  Âm là tiếng gốc, chịu ảnh hưởng nhiều ở họng thì gọi là hầu âm, chịu ảnh hưởng nhiều ở lưỡi thì gọi là thiệt âm, chịu ảnh hưởng nhiều ở răng thì gọi là xỉ âm, chịu ảnh hưởng nhiều ở môi thì gọi là thầm âm. Âm phát ra một cách bằng phẳng. Giọng của âmbiến chuyển khi cao khi thấp, khi đục khi trong, thành ra 8 thanh. Tám thanh là 8 cái ngọn của âm do các dấu huyền sắc nặng hỏi ngã tạo thành.
Đạo Thành: - Phân biệt được Thanh nhờ những dấu chuyển thanh, phân biệt được vận nhờ khuôn cọng với thanh. Còn phân biệt các thứ âm thì nhờ yếu tố gì?
-  Nhờ 1 hay 2 mẫu tự ơ đầu hai mẫu chữ. Ví dụ “Bà bán bột bị bắt bỏ bót”, hoặc “Chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ”, đồng âm. Để cho tiện việc kêu gọi thì dùng chữ cái khởi đầu mà đặt tên cho mỗi âm: Âm B, âm Ch, âm Đ… vân vân… (10)
Lạp Mai: - Nói về âm chừng nấy cũng tạm đủ. Xin nói về bệnh.
-  Hai bệnh của Âm là Bàng Nựu và Chánh Nựu.
Bệnh Chánh Nựu mắc phải là do 2 hay nhiều chữ cách nhau mà đồng âm với nhau:
Phạm pháp thì bị phạt
Đem tiền đến chực lo
Rủi lo giám sát biết
Ai dám dạy dùm cho
Trong 1 câu 5 chữ mà đến 2 hay 3 tiếng đồng âm thì nghe lắp bắp quá!  Nhưng nếu 2 chữ đồng âm đứng sít nhau thì không bị bệnh:
Phạm pháp thì bị tù
Đừng thanh mình vụng tu
Quan toà sáng suốt lắm
Lo lót chết bỏ bu
Chánh Nựu thì bệnh nằm trong từng câu. Còn Bàng Nựu lại phải do 2 hay nhiều câu “lục đục” với nhau mới sanh ra bệnh, và bệnh nằm ở chữ cuối mỗi câu:
Ai nấy đều người phàm
Tội lỗi sao khỏi phạm
Bắt nhốt vào nhà pha
Bị đoạ đày nghĩ thảm.
Phàm phạm pha nối tiếp nhau nghe như nói cà lăm. Không cần đến ba chữ đồng âm như thế, chỉ hai chữ cũng đủ khó nghe:
Ai nấy đều người phàm
Tội lỗi sao khỏi phạm
Bắt nhốt vào nhà lao
Bị đày đoạ nghĩ thảm.
Hoặc đổi chữ PHÀM trên câu 1 ra chữ TRẦN và để y chữ PHA ở câu thứ 3, thì đọc nghe cũng thấp lặp bặp.
Nếu như nghiêm khắc thì bài sau đây cũng bị bệnh Bàng Nựu:
Nghe đau tìm đến thăm
Đều những bạn tình thâm
  Ai nấy mặt tươi tỉnh
Người bệnh được yên tâm.
Nói nghiêm khắc là nói về câu 1 và 2, chớ câu 3 và 4 thì bị bệnh hẳn hoi. (Tỉnh, Tâm)
Phong Lâm:
-  Nếu thế thì câu này cũng bệnh sao:
Hiu hắt gió chiều đông
Mảnh tơi thân mục đồng.
- Câu  “Nghe đau tìm đến thăm.. tình thâm”, chỉ là bệnh sổ mũi. Có thể khoan thứ  cho là hiệp thức, vì nhờ vần với nhau. Còn câu “… Chiều đông …. Mục đồng” thì không bệnh bỡi nhờ sự khác thanh đã hóa giải được chất đôc của sự đồng âm. Do đó câu “.. đông… đông”, nghe êm ái dễ ưa.
(1 là trường bình thanh, 1 là đoản bình thanh)
Mà câu thơ nào nghe thuận tai đọc sướng miệng là câu thơ không bệnh.
Đạo Thành:
- Tuỳ âm dị thẩm âm nan
Phong Lâm:
- Bởi vậy trên đời không có nhiều Chu Lang, và Chung Tử Kỳ chết thì Bá Nha đập cầm.
Lạp Mai:
- Tám bệnh Thẩm Ước tìm ra tôi thấy cũng không đến nỗi khó nhớ và khó tránh. Những bệnh ấy quả làm hại âm điệu câu thơ không nhiều thì ít. Nếu mình muốn đi đến chỗ tinh diệu của âm thanh thì dùng công phu tập luyện, bằng không thì thôi chớ sao lại nặng lời cùng Thẩm Ước?
- Cụ Ngô Đức Kế và cụ Huỳnh Thúc Kháng nặng lời cùng cụ Nguyễn Du, tác giả Đoạn Trường Tân Thanh, nào phải ghét cụ Nguyễn Du hay ghét Đoạn Trường Tân Thanh, mà chính ghét nhà văn Phạm Quỳnh đã tán tụng Đoạn Trường Tân Thanh quá đáng gây thêm sức mạnh cho phong trào lãng mạn và phát sinh, trong khi các cụ đương ra công chấn khởi tinh thần ái quốc của nhân dân Việt Nam. Đối với Thẩm Ước cũng thế, những thi nhân văn sỹ công kích thuyết Tứ Thanh Bát Bệnh và buộc tội kẻ đề xướng, là cốt để ngăn chận bớt lòng sùng kính thái quá luật Thanh Bệnh, coi là giáo điều bất khả xâm phạm, dồn cả sức lực bình sinh vào hình văn thinh văn mà xao lảng tình văn, nghĩa là chỉ lo trau lời cho đẹp chuốt giọng cho kêu, còn tánh tình tư tưởng thì trống rổng.
Trong việc văn chương cũng như  việc trần thế, hẽ cái gì thái quá thì cũng đều gây phản ứng.
Còn một hạng người nữa công kích Thẩm Ước là vì không đủ tài hoặc lười biếng không vượt qua khỏi những lỗi mà Thẩm Ước đã vạch cho nhiều khách yêu văn chương thấy rõ. Ví dụ: Ở Bình Định có một số người đọc sai Chính tả. Như Quả Xoài thì nói là Trái Xoài, Đi Về thì nói là ĐI Dìa… Khuyên họ sửa lại cho đúng, họ đáp : “Nói sao hiểu được thì thôi”. Nếu khuyên nữa thì họ đổ khùng mắng: “mấy nghìn năm nay ông bà nói thế đã hại gì mà bây giờ bắt buộc phải nắn lưỡi uốn mồm cho mệt”.
Để kết luận lão lặp lại những ý lão đã trình bày ở đoạn trước:
-  Người ta chỉ bệnh cho mình thấy, mình tránh được càng tốt, bằng không tránh được hoặc không cần tránh, không muốn tránh, mà tình ý diễn tả được đầy đủ, câu thơ nghe không đến nỗi trúc trắc ngượng ngập, thì cũng không hề gì. Dùng lời để đạt ý. Lời dù đẹp dù êm tới đâu mà không đạt được ý hoặc làm hại đến ý, thì đều không ích gì cho người làm thơ cũng không  lợi gì cho làng Thơ. Nhưng một người dù tài giỏi đến đâu, dù dung mạo có đẹp đẽ bao nhiêu mà bị bệnh nội thương hay ngoại thương khá nặng thì thiên hạ cũng ít muốn giao du. Thơ cũng thế.
__________________________________________________________________
(1) Câu luận bài Vịnh Các Nở Cuối Năm của Lạp Mai.
(2) Lời của Chu Xả đáp vua Lương Vũ Đế khi hỏi về tứ thanh.
(3) Thằng đui vịnh mặt trời.
(4) Trò hề thanh điệu
(5) Kim nhân cũng như cổ nhân, nhiều người rất sành thanh bệnh, song thỉnh thoảng cũng vẫn “vi phạm”, muốn tránh nhưng không tránh được, nên phải hy sinh thanh điệu cho tánh tình.
(6) (7) (8) (9) ở đây chỉ đưa ví dụ ra chứng minh cho sự xuôi tai và không xuôi tai mà thôi, chớ không chú trọng đến nội dung.
Trong 8 bệnh của Thầm Ước, 4 bệnh Bình Đầu, Thượng Vỹ, Phong yêu, Hạc Tất, thuộc về Thanh. Còn 4 bệnh nữa thì 2 bệnh thuộc về Âm và 2 thuộc về Vận.
(10) Nói một cách tóm tắt: Phân biệt Thanh nhờ dấu `’.? ~ phân biệt âm nhờ vần xuôi, phân biệt vận nhờ vần ngược.