Trong vườn hoa thơ Bài 16-Tiếp khách hoa thơ[3]

TIẾP KHÁCH HOA THƠ [3]

8.

VIÊN TỬ TÀI, tác giả Tuỳ Viên Thi Thoại, nói rằng:
-  Chữ TRUYỀN là chữ NHÂN thêm chữ CHUYÊN, ý nói: người chuyên ắt truyền được vậy.
Từ ngày học thơ, NGUYỄN THỊ KIM NHUNG chỉ chuyên về thể Lục Bát và Song Thất Lục Bát. Có một số bài khả ái, nếu gặp được cơ duyên biết đâu lại không được truyền tụng. Như:
GHÉ NGANG
Lòng em là bến hàn giang,
Anh, thuyền du khách ghé ngang một chiều.
Thuyền đi bến lại cô liêu,
Chân cò mặt sóng cánh diều lưng mây !
Nước trôi ngày lại trôi ngày,
Lòng xao sóng lạnh mây bay bóng thuyền.

Bài này chịu ảnh hưởng bài SANG NGANG của cố thi sỹ NGUYỄN ĐÌNH THƯ, mà lão nhớ chừng chừng rằng:
Lòng em là chiếc thuyền lan,
Tình anh là khách sang ngang một chiều
Thu nào quá đỗi cô liêu
Bờ hun hút lạnh nắng hiu hiu buồn…
Đi rồi thuyền cách bến thôn,
Tình người gió biển mưa nguồn biết đâu!
Cầm tay chừ hẹn chi nhau
Bên sông nước chảy một màu bao la!

Thể cách tuy đồng, những mỗi bài có một phong thú riêng biệt. Bài của NGUYỄN ĐÌNH THƯ man mác bao la. Một mối tình hiện tại bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai, một quá khứ xa xôi, một tương lai vô định! Một mối tình bát ngát mênh mông! Còn bài của KIM NHUNG chứa chan một mối tình quá khứ đương nằm trong hiện tại, một mối tình ôm thu một khoảng thời gian và không gian dài rộng vào trong một khung cảnh cỏn con! Ý vị!
Về Song Thất Lục bát, KIM NHUNG cũng đã luyện lắm. Như:

NGỌN ĐÈN KHUYA
Cúc đơm hương trời sương ngào ngạt,
Chén quan hoài, đậm? Nhạt? Tình ai …
Ngọn đèn riêng bóng thư trai,
Mộng xuân chưa dệt, còn dài tơ duyên..
Trăng thượng huyền nghiêng nghiêng vẻ ngọc,
Thuyền lãng du ngang, dọc, đời ai!
Ngọn đèn lụn bấc thư trai,
Tơ duyên mong dệt cho dài mộng xuân
Lời văn tuy không được mới, chữ dùng tuy có phần xưa, song cách dàn ý, lối diễn tình thật có chỗ cá biệt, và vị thơ cũng khá đượm đà.
Lão đương cùng chén trà mai gục gặt, thì KIM NHUNG tìm đến hỏi lão:
-  NHUNG muốn tập làm thơ Đường luật, phỏng có được chăng?
Lão đáp:
-  Đường nhân HỨA HỒN có câu rằng:
Ngâm thi hảo tợ thành tiên cốt,
Cốt lý vô thi mạc lãng ngâm.
Nghĩa là:
Ngâm thơ cốt tợ thành tiên ,
Không thơ trong cốt chớ phiền ngâm thơ.
Mà KIM NHUNG vốn là người có sẵn thi cốt thì muốn làm thơ gì lại chẳng được.
KIM NHUNG cười:
-  Lão Vườn muốn mượn lời cổ nhân để nhủ khách làm thơ rằng “Thơ quí ở cốt chứ không phải ở cách”?
Lão gật đầu:
-  Chính thế. Một thi nhân nước Pháp ở thế kỷ thứ 18 là André CHENIER cũng có câu rằng: “L’art ne fait que des vers, l’âme seul est poète”. Nghĩa là “Nghệ thuật chỉ làm ra những câu thơ, chính tâm hồn mới là thi sỹ”.
-  Nhưng có tâm hồn mà không có nghệ thuật thì thơ cũng chẳng nên thơ.
-  Quả vậy. Nhưng tâm hồn là của trời, nghệ thuật là của người. Trời khó vói, người dễ gần.
-  Tuy rằng dễ gần, song há ai cũng có thể gần được? Dễ mà khó, thật khó!
-  Có khó mới có thú.
KIM NHUNG cười: - Khó quá cũng hết thú. Như thơ Đường luật.
Lão hỏi:
-  Thơ Đường luật khó ở chỗ nào?
-  Phép đối chọi.
Lão cười:
-  Nếu quả phép đối chọi là khó, là thật khó, thì những tay rành nghề còn công sức đâu mà bày ra nhiều cái rắc rối thêm? Như đã hạn những vận mắc mỏ, còn buộc kẻ làm thơ phải dùng những chữ những tiếng.. đã lựa sẵn trong mỗi câu.. hoặc phải dùng cái này cái nọ, phải tránh điều này điều nọ. Vân vân …
-  Ví dụ bài Chê gái lấy chồng già của cụ tú Nguyễn Đức Thuận, dùng vận từ thứ (vận trong bài Từ Thứ qui trào của Tôn Thọ Trường) câu trên có tên một giống chim câu dưới có tên một giống thú, và mỗi câu có tên một vị thuốc Bắc. (Từ Thứ vận, thượng cầm hạ thú, nhất cú nhất vị dược):
                                                 Chim QUYÊN bả đậu nhánh choi voi,
MANG bạch đầu ong nỏ mặn mòi. (1)
PHỤNG ước thung dung ăn trái trúc,
THỎ đâu cam toại ấp nhành còi.
Liên kiều THƯỚC bắc so le nhịp,
Sơn giác NGỰA đua hụt chạc roi.
LOAN chạ từ cô đừng chuyện ấy,
Kén LỪA quân tử giá ngàn thoi.
Bài này do một quan tổng đốc Bình Định ra đề. Thí sinh có hàng trăm nhưng chỉ có bài của cụ tú NHUẬN là trúng tuyển và được hậu thưởng.
Về loại này cụ Tam Xuyên TÔN THẤT MỸ rất sở trường. Cụ có nhiều bài truyền tụng, như bài GHẸO O ĐOÀI BÁN BÁNH, trong mỗi câu có tên một quẻ trong bái Quái và tên 1 thứ bánh:
                                         Vẻ ngọc CÀNG say rượu ít nồng (2)
Khen ai vòng KHẢM đúc hình dung.
CẤN nơi quán khách e dầy dụa
CHẤN bức mành ba những ước mong
Gieo lá TỐN công dòng bích thuỷ,
Dấu bèo LY hận ngọn đông phong.
Ngắm em xem chợ tình KHÔN hỏi,
Ngoảnh lại non ĐOÀI ngọn ráng hồng.

Một hôm vào chơi nhà người bạn thấy một thiếu nữ ngồi tập đánh vần chữ Quốc ngữ, cụ bèn làm một bài thơ ghẹo trong có tên những dấu Huyền sắc nặng hỏi ngã và một câu có mỗi chữ cái La Tinh. Lão chỉ nhớ mày mạy được bốn câu giữ, rằng:
HUYỀN vi máy tạo E lời lậu ( `, e)
SẮC sảo câu thơ IT chữ đề ( ', x)
NẶNG gánh tương tư tình ép uổng. ( ., f)
HỎI nơi kỳ ngộ dạ đê mê (?, đ)

Cụ tú NHUẬN và cụ Tam Xuyên là những bậc tiền bối đã qua đời. Hiện nay còn có cụ NGUYỄN KHOA VY ở Huế, làm thơ rất lanh và có tài nói lái. Như:
Nhắc bạn riêng thương tình nhạn bắc,
Trông đời thêm ngán cảnh trời đông.
Hoặc:
Bảy cụ bóp lầm cô bụ cảy (bụ cảy: vú đau)
Ba trò ăn xả thịt bò tra. (bò tra: bò già).
Cụ còn nhiều ngón lắc léo khác, như  toàn bài dùng những chữ khởi đầu bằng một phụ âm hay một nguyên âm, dùng một số chữ nhất định hay một câu thơ thành một bài thơ có nghĩa lý,vân.. vân… Rất tiếc là lão không nhớ để dẫn ít câu cho vui. Câu nầy:
Tin nhạn mong chờ e  ít hát (E , X, H)
Gối loan trằn trọc ép anh ca (F, N, K)
Dường như cũng của cụ là phải.
Còn rất nhiều người khác bày ra nhiều ngón xảo kỷ khác, như dùng chữ Pháp lẫn cả nghĩa khác vào thơ. Ví dụ:
Phản săn ngồi mãi đơ hai gối (Deux:hai)
Xe lửa nghe ra huýt tám giờ (Huit:tám)
Của Khương Hữu Dụng. Vân vân…

Thật là khéo! Lối kỹ thuật tiểu xảo ấy, người xưa không có. Người xưa đặt ra phép, đặt ra luật, cốt để cho người làm thơ nương theo đó mà phô diễn cho dễ có tiết tấu dễ có vần điệu. Phép đối trượng bày ra để cho câu thơ được thêm phần trang trọng, để cho nhạc thơ được dễ điều hoà. Phép đối trượng của cổ nhân rất giản dị: Về thanh thì chỉ có chữ thứ 2, chữ thứ 4, chữ thứ 6, bằng trắc phải đối nhau, chữ thứ 1, chữ thứ 3, chữ thứ 5, không cần phải đối (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh). Còn về tự thì chữ hư đối với chữ hư, chữ thực đối với chữ thực…, nghĩa là loại chữ nào đối theo loại chữ nấy. Đối thế nào cho câu thơ được thăng bằng, hoà hợp, nhạc thơ được nhịp nhàng êm ái là ổn thoả, là thành công, chớ không cần phải chỉnh từng chữ một. Ví dụ câu thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ:
Bạn già lớp trước nay còn mấy,
Chuyện cũ mười phần chín chẳng như.
Nếu lấy ra so sánh từng chữ, thì trừ 2 chữ đầu của mỗi câu là chọi nhau sít sao, còn các chữ khác thì không chỉnh. Thế mà đọc lên chúng ta không hề thấy lệch lạc, và xưa nay ai nấy cũng đều công nhận. Lắm lúc cổ nhân bỏ cả đối. Ví dụ cặp trạng trong bài Hoàng Hạc Lâu của THÔI HIỆU đời Thịnh Đường:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du
Mà Tản Đà dịch là:
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn thu mây trắng bây giờ còn bay.

Câu thơ của họ Thôi chẳng những bỏ đối, mà còn bỏ cả luật bằng trắc. Thế mà câu thơ vẫn giữ được thế quân bình và tạo nên một nhạc điệu đặc biệt gây nhiều hứng thú cho người đọc thơ.
KIM NHUNG: - Như thế chứng tỏ rằng Thi nhân đời Đường sáng chế ra luật thi, nhưng không cố chấp luật.
-  Bởi vì cổ nhân không bao giờ coi luật thơ có giá trị tối cao, bất khả xâm phạm, mà chỉ coi là một phương tiện, và lẽ tất nhiên không phải là phương tiện duy nhất, độc tôn. Cố chấp luật thi là người đời sau, và bày ra những kỷ thuật tiểu xảo cũng do người đời sau. Vì chấp luật, vì ưa chuộng xảo kỷ mà phần đông người làm thơ quá thiên về hình thức, xao nhãng mất nội dung, khiến vừơn thơ hiện ra một cảnh hoa giấy tưng bừng nhưng thiếu hương vị. Đó là cảnh tượng làng thơ Đường Luật buổi Tiền Chiến. Do đó mới có phong trào Thơ Mới nổi dậy đả kích thơ Đường Luật ngót 10 năm trời, từ 1932 đến 1941… Cũng vì quá chuộng hình thức, cũng vì lo gò gẫm trong việc đối chọi, làm mất sanh khí của thơ…, nên Lưu Trọng Lư mới dám lớn tiếng công kích rằng: “Phép đối trong thơ cũ bất ngoại con chó đi ra, con mèo chạy về”.
KIM NHUNG cau mày: - Sao lại quơ đũa cả nắm như thế?
Lão cười:
-  Cũng bởi mình có đũa nên người ta mới quơ được chứ.
-  Theo lời Lão Vườn thì không nên chú trọng đến việc đối chọi. Song NHUNG nhận thấy thơ Lão Vừơn không bài nào đối không chỉnh, cả đến thơ tứ tuyệt không cần phải đối, mà thỉnh thoảng lão cũng đối rất sít sao. Như:
SONG CHIỀU
Ngày trôi chậm chậm sông đưa lá,
Thoi liệng xa xa én dệt mù.
Mở rộng song thơ chờ ánh nguyệt,
Nửa lòng xuân sắc nửa lòng thu!

Kim Nhung nhìn lão một cách hóm hỉnh, có ý bảo thầm rằng lão nói một đàng làm một nẻo. Lão mỉm cười:
-  Đó chỉ là thói quen, cũng như các ông già hay vuốt râu vậy thôi… Nhưng nếu bài SONG CHIỀU quả là một bài thơ hay, theo ý của Kim Nhung, thì thử xét kỹ xem nó hay nhờ đối chọi sít sao hay nhờ những gì khác? Xin thú thật rằng lão làm thơ thì trước uẩn nhưỡng tâm tư, sau mới thôi xao từ điệu. Mà thôi xao từ điệu là cốt để diễn đạt tâm tư cho được chu đáo, chớ không phải để khoe tài văn chương, vì làm văn làm thơ là gởi tấm lòng vào thiên cổ chớ đâu phải làm việc phấn sức cho tài ba trong một thời.
KIM NHUNG: - Làm thơ Đường luật mà không đối có được chăng ?
-  Không nên cố chấp mà thôi, chớ bỏ hẳn thì không còn gọi là Đường luật nữa. Có nhiều nhà thơ hiện đại dùng thể Thất Ngôn bát cú nhưng bỏ đối, tạo thành một thể mới không kém phần trang nghiêm. Ví dụ bài NGHE HÁT của VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Phách ngọt đàn say nệm khói êm,
Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm.
Canh khuya đưa khách lời gieo ngọc,
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm,
Ai lạ nghìn thu xa tám cõi,
Sen vàng như động phía châu liêm.
Nao nao khói biếc hài thương nữ,
Trở gối hoa lê rụng trắng thềm.
Và bài NGHẸN BƯỚC của Vũ Hân:
Nắng rụng gầy sương đường lỡ thì
Thương người khăn gói nghẹn chân đi!
Quán nghiêng nửa mái chờ giông tố,
Cữa hẹp mây đùn sập nét mi!
Quỉ dựng đàng sau muôn lớp ải,
Lòng nghe nai gặm cỏ biên thuỳ.
Xoa tay nhớ lại mùa xuân trước
Phấn bướm còn vương nhịp trúc ti.
Những bài thơ như thế chẳng những có giá trị về văn chương, mà còn ngậm chứa hương vị thời nhà Đường, nhất là hai cặp kết.
Vậy theo ý lão, thì KIM NHUNG nên tập làm thơ Thất Ngôn Bát Cú theo cách nầy. Và lão khuyên nên tránh xa lối tiểu xảo của các thi công trong làng thơ Đường luật. Những kỷ thuật tiểu xảo chỉ làm vui mắt những kẻ hiếu kỳ, nhưng thường hay làm chết hồn Thơ là cái cần thiết, cái cốt yếu vậy.
KIM NHUNG cười lớn:
-  Một nhà thơ Đường luật có tiếng là cân nhắc từng câu từng chữ, lại khuyên người không nên chú trọng về hình thức!
Lão liễm dung đáp:
-   “Cân nhắc từng câu từng chữ: và “chú trọng hình thức” thật khác nhau xa lắm. Và “Chú trọng hình thức” với “lo tỉa vẽ những nét tiểu xảo” cũng khác nhau xa. Người có thi cốt như KIM NHUNG không nên lầm lẫn. Những sự lầm lẫn như thế hay nhường lại cho những người chưa hiểu Thơ cũng như những xảo kỷ kia nên nhường lại cho các thi công lấy thơ làm món tiêu khiển, món trang sức.
KIM NHUNG xin “lĩnh giáo”, nhưng lại nói: - Thú thật cũng Lão Vườn, Nhung thích đối quá, mặc dù biết rằng khó.
-  Sở thích ấy đã biểu lộ trong những câu thơ lục bát:
Thuyền đi bến lại cô liêu,
Chân cò mặt sóng, cánh diều lưng mây.
Nước trôi ngày lại trôi ngày,
Lòng xao sóng lạnh, mây bay bóng thuyền.

Cách tiểu đối ấy báo trước rằng Kim Nhung sẽ đạt được ý muốn… Nhưng không nên say đắm mà sớm già như lão đó.
KIM NHUNG cười, ngâm:
Ngòi hoa mỗi nét thêm già giặn,
Mái tuyết nghìn thu vẫn trẻ trung.
Lão vỗ tay khen:
-  Nữ nhi đáo thử thị hào hùng!
 __________________________________________________________
(1), (2) Ở miền Trung từ Huế trở vào, những chữ có G đọc in những chữ không G, nên MAN và CÀN lộn với MANG và CÀNG.




9.

Cặm cụi cùng mấy giỏ hoa, từ hừng đông đến đứng bóng, mà không lựa được một nhánh xuất sắc để đem chưng bày ra vườn Thơ! Mỏi quá lão ra nằm khểnh dưới gốc mận, ngửa nhìn mặt trời lách qua tầng lá để “bắt chước những vì sao”. Thỉnh thoảng gió biển thổi đến làm rụng đôi ánh nắng đậu cành cao. Lão cao hứng nhịp đùi ngâm bài “Một buổi trưa mùa thu” trong Mùa Cổ Điển:
Gió tự mô về? Thổi đến mô?
Mấy cành sao rụng bóng hoa nô.
Đây vài giọt nhẹ rơi mưa lá,
Đó một màu im trải nắng hồ.
Tóc vướng hơi hương vườn thuý liễu,
Lòng nương tiếng địch bến vi lô.
Trưa Bồng Lai khẽ rung rinh biếc,
Nghiêng cả hồn thu xuống lững lờ.

Đương lúc lão “quên thiên hạ”, thì BA NẠI HÀ và MẠN ĐÀ HOA đến dựng dậy:
-  Lão Vườn có vui lòng tiếp chúng tôi?
-  Trong lúc nằm không mà có người đến nói chuyện thì còn gì thích thú bằng.
MẠN ĐÀ HOA: - Nếu câu chuyện không được thích thú, thì lỗi không phải tại nơi chúng tôi.
-  Thì tại lão.
BA NẠI HÀ: - Đúng vậy. Vì trong câu chuyện nói cùng chị Kim Nhung hôm nọ, Lão Vườn có dùng mấy chữ “Uẩn nhưỡng tâm tư, Thôi xao từ điệu”, mà chúng tôi không được rõ nghĩa, nên nay đến thỉnh giáo.
Lão cười: - Đã gieo gió thì phải gặt bão, lão đâu dám phàn nàn. Vậy lão xin giải thích:
UẨN NHƯỠNG là nung nấu lâu ngày, nấu từ từ với một sức nóng điều độ, nấu cho đến lúc chín rục, nhuyễn bấn, như nấu rượu, nấu cao.
Làm thơ không nên vội vàng hấp tấp. Những ý niêm, những tình cảm, những tư tưởng… phải được nấu nung hun đúc cho thật chín, cho thật nhuyễn, nghĩa là phải được nghiền ngẫm, nhào nặn, phân tách, thử thách… cho thật kỹ rồi mới đưa ra cùng văn chương.
Như thế là uẩn nhưỡng, là phanh luyện.
Cổ nhân có câu:
Ngâm thành ngũ cá tự,
Dụng tận bán sanh tâm.
Nghĩa là: Làm nên được một câu thơ năm chữ, thì đã dùng hết tâm lực của nửa đời người.
Xem đó thì biết rằng cổ nhân làm thơ thật là công phu. Mà cũng nhờ có công uẩn nhưỡng phanh luyện, thơ của cổ nhân mới sống mãi với nghìn thu. Lòng của cổ nhân vẫn cùng lòng của người nghìn muôn thu sau giao cảm.

-  Đó là “Uẩn nhưỡng tâm tư”. Còn “Thôi xao từ điệu”?
-  Thôi là xô đẩy, thúc dục. XAO là gõ, đánh. Đó là nghĩa đen. THÔI XAO trong câu dùng theo nghĩa bóng. THÔI XAO TỪ ĐIỆU là lựa chữ, chuốt lời, gióng điệu... để diễn tả cho kỳ được những gì mình muốn diễn tả.
MẠN ĐÀ HOA: - Sao từ “Xô.. Gõ..” mà lại biến thành “lựa, chuốt..” được ? Thật giống thuyết “Chim se sẻ hoá làm ngao biển” quá!
BA NẠI HÀ: - Không lẽ cổ nhân dùng chữ sai?
Lão đáp: - Ở đời, cái gì cũng có nguyên nhân.
Nguyên đời nhà Đường có một thi ông tên là GIÃ ĐẢO, tự là LÃNG TIÊN, hiệu là Kiệt Thạch Sơn nhân. Buổi thiếu thời cắt tóc đi tu, nhưng tính tình rất phóng khoáng.
Một hôm, nhân đêm trăng sáng đến tìm nhà ẩn sỹ Lý Ngưng, hứng cảnh được hai câu rằng:
Điểu túc trì biên thọ,
Tăng xao nguyệt hạ môn.
Nghĩa là: Chim ngủ nơi cây bên bờ ao, nhà sư gõ cữa dưới bóng nguyệt.

GIÃ rất lấy làm đắc ý, song lại muốn đổi chữ XAO ra chữ THÔI. Cân đi nhắc lại thấy chữ nào cũng hay cả, nên không thễ quyết định lấy chữ nào bỏ chữ nào. Suốt đêm không ngủ được. Sáng ngày dậy đi lang thang hết đường nầy đến nẻo nọ, một tay ra hiệu xô, một tay giả bộ gõ… Xảy có quan Binh bộ thị lang là HÀN DŨ đi ngang qua, trông thấy lấy làm lạ, dừng xe lại hỏi. GIÃ ĐẢO nói thật sự tình. HÀN lấy làm thích thú xuống xe cùng GIÃ đến nơi gốc cây ngồi nói chuyện, và khuyên GIÃ nên để chữ XAO.
HÀN để chữ XAO, vì chữ nầy vừa tả được thái độ ung dung của nhà sư, vừa gợi được cảnh tĩnh mịch của đêm trăng trong nơi ẩn dật. Còn chữ THÔI và ngậm ý vội vàng, bài tỏ ra vô tình đối với ánh trăng trước cữa. Không ý vị bằng chữ XAO (1)

MẠN ĐÀ HOA cười: - Có tích mới dịch ra tuồng.. Nếu cứ chữ đầu nghĩa đó thì đố ai hiểu cho nổi! Mà người xưa làm thơ sao mà khổ công lắm vậy?
Lão đáp:
-  Tính khổ công như thế mà nhiều khi còn không nói hết nỗi lòng, huống hồ hạ bút viết đại !
BA NẠI HÀ: - Nghe nói LÝ THÁI BẠCH một đấu rượu nghìn câu thơ, thì sao?
Lão cười:
- Nếu sự thật quả như vậy, thì thơ họ LÝ còn truyền lại, sau mấy mươi năm say ngâm, ngâm say, biết chứa vào đâu cho hết được ? Nhưng thôi, hãy để vị Trích Tiên lại đó. Khi khác sẽ bàn đến. Bây giờ lão xin kể thêm 1 câu chuyện nữa về GIÃ ĐẢO cho vui.
- Hoan nghênh.

Một hôm khác, GIÃ ĐẢO cỡi lừa đi dạo quanh Tràng An. Nhân trông thấy lá vàng rụng đầy đất, bèn cao hứng ngâm:
Lạc diệp mãn Tràng An.
Nghĩa là : Lá rụng đầy cả Tràng An.
GIÃ thích chí vỗ tay cười lớn. Nhưng rồi tìm mãi không ra tứ cho vế đối, dong lừa đi lững thững trên đường, miệng lẩm ba lẩm bẩm… Chợt nhìn xuống sông… Gió xao sóng gợn làm nảy tứ, đối ngay:
Thu phong xuy Vị Thuỷ.
Nghĩa là: Gió thu thổi sông Vị Thuỷ.
Khoái quá đâm cuồng, GIÃ giục lừa nhảy lung tung, chẳng may nhảy xô vào xe quan đại doãn. Lính hầu bèn bắt giam cho đến sáng hôm sau mới tha về! (2)
Câu chuyện không mấy lúc mà truyền khắp Tràng An. Người đương thời có lời vịnh GIÃ rằng:
Kỵ lư xung đại doãn,
Đoạt quyển ngộ tuyên tôn.
Nghĩa là: Cỡi lừa xông vào quan đại doãn, giựt sách lầm phải đức tuyên tôn (đức vua).

MẠN ĐÀ HOA: - Vế trên nói về chuyện “hứng bất tử” của Lãng Tiên. Còn vế dưới nói về việc gì?
- Trước hay sau việc “cỡi lừa đi dạo” đó, GIÃ đến thăm nhà sư chùa Pháp Kiền. Hai người ngồi nơi trai viện ngâm thơ. Vua Đường Văn Tôn vi phục đi chơi, ghé vào chùa thấy hai nhà sư ngồi đối diện ngâm nga ra vẻ đắc ý, bèn đến gần nghe. Nhân thấy quyển thơ để bên cạnh, thuận tay nhà vua cầm lên xem. GIÃ dằn lại, và mắng: “Nhà ngươi thật lỗ mãng! Biết gì mà xem?”. Vua bỏ đi ra. Giây lâu thị thần lẻn vào cho biết rằng người bị mắng là đương kim hoàng đế. GIÃ sợ toát mồ hôi. Sáng hôm sau đến phủ phục trước cửa đền vua xin chịu tội. Vua truyền tha….
Lão vừa dứt lời thì bê kia rào có tiếng cười hả hả: - Chàng thi sỹ thầy tu kia sao mà lắm chuyện?
Lão quay lại: - Nhờ vậy mới có kẻ núp rào nghe.
Ông bạn láng giềng lách rào bước sang: - Còn chuyện gì vui, hãy kể nghe cho hết buổi.
- Nhân vừa kể chuyện thi nhân gặp vua, lại vừa có kẻ núp rào nghe trộm, nên lão xin kể một chuyện cũng có thi sỹ cũng có vua mà cũng có núp…
MẠN ĐÀ HOA vỗ tay reo: - Thế thì thú lắm.

Ông bạn láng giềng cười lớn:
-  Lão Vườn sẽ kể chuyện Đông Phương Sóc chớ gì?
-  Không phải. Lão kể chuyện MẠNH HẠO NHIÊN.
-  Chuyện họ MẠNH trông thấy nhà vua, sợ hãi chun xuống giường mà núp đó phải không?
-  Phải.
-  Biết rồi.
-  “Đừng nói nữa, khổ lắm”?
BA NẠI HÀ: - Hai đứa tôi chưa biết.
MẠN ĐÀ HOA: - Để cho người biết rồi khỏi khổ lắm vì nghe nói nữa, tôi xin đề nghị người biết rồi kể lại chuyện Mạnh Hạo Nhiên.
Ông bạn láng giềng vuốt râu: - Tớ kể chuyện không có nhưng nhị. Song không hề gì, vì câu chuyện, tự nó đã đủ hương, đủ vị rồi. Vậy nghe đây:

MẠNH HẠO NHIÊN là một thi nhân đứng vào bậc niên trưởng đời Thịnh Đường. Người có khí tiết, thích an nhàn, không chịu xuất sỹ, ẩn cư trong núi Lộc Môn. Thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ.. đều tôn xưng là Phu tử, là tiên sinh.
Tiên sinh  là bạn học cùng VƯƠNG DUY. Lúc họ VƯƠNG làm Thượng thư Hữu thừa ở Tràng An, tiên sinh tìm đến thăm, và ở chơi cùng bạn. Một hôm hai người đương ngồi bình luận văn thơ nơi sảnh đường, thì tình cờ vua Đường Huyền Tôn đến. MẠNH tiên sinh sợ hãi liền tụt xuống gầm giường mà trốn, để một mình họ VƯƠNG ra nghinh giá. Nhà vua vào thấy vật dụng bày chung quanh, biết là vừa có khách ngồi nói chuyện, bèn phán hỏi. VƯƠNG không dám dấu sự thật. Nhà vua mừng rỡ phán: "Trẫm nghe danh đã lâu nhưng chưa biết mặt. Nay gặp đây, việc gì phải trốn”. Đoạn gọi tiên sinh ra, bảo ngồi và đòi nghe thi phẩm. Tiên sinh phụng mệnh.
Khi nghe đọc bài “Quy Chung Nam Sơn” có câu:
Bất tài minh chúa khí
Đa bệnh cố nhân sơ
Nghĩa là “Không tài minh chúa bỏ, lắm bệnh cố nhân sưa”, thì nhà vua cười, phán: “Đó là khanh không chịu đến với trẫm, chứ trẫm có bỏ khanh đâu, sao lại nói vu như thế?”. Tiên sinh làm thinh. Nhà vua bảo Vương Duy khuyên ở lại giúp việc nước, nhưng tiên sinh cố từ, và rồi trở về núi.
Lão tiếp: - MẠNH HẠO NHIÊN và VƯƠNG DUY là hai thi nhân có tiếng là khổ ngâm. Họ MẠNH mỗi lần ngâm xong 1 bài thi thì lông mày rụng gần hết! Còn VƯƠNG DUY có lần cấu tứ chạy xả vào  vò dấm! Làm thơ khắc khổ như thế, mà thơ hai nhà vẫn ung dung hoà nhã như tuồng hạ bút thành văn. VIÊN TỬ TÀI khen là “Thiên y vô phùng” nghĩa là “Áo trời không đường may”.
BA NẠI HÀ: - Làm thơ mà khổ công như thế thì còn gì hứng thú?
Lão đáp:
-  Có từng sống với Thơ mới thấu triệt được nỗi khổ sướng. Người đời Đường có câu:
Khổ ngâm tăng nhập định,
Đắc cú tướng thành công.
Nghĩa là: Khách thơ khi làm thơ dụng công khó nhọc chẳng khác nhà sư tham thiền để vào định xứ; Đến khi làm được câu thơ đắc ý thì lại vui sướng không thua một ông tướng xuất trận được thành công.

Công phu như thế, thích thú thế mà rủi gặp phải một người xem thơ không biết mùi vị thì thật là bất hạnh! Bởi vậy Giã Đảo có câu:
Lưỡng cú tam niên đắc,
Nhất ngâm song lệ lưu!
Tri âm như bất ngộ
Qui ngoạ cố sơn thu.
Tạm dịch là:
Ba năm lòng gởi đôi câu,
Ngâm lên một tiếng lệ châu ướt dầm!
Đường đời không gặp tri âm,
Non xưa trở lại ôm nằm với thu.

MẠN ĐÀ HOA: - Thật là cảm động ! Đó là “tấc lòng gởi vào thiên cổ” Dẫu đến người vô tâm đọc lên e cũng phải động tâm.
Lão nói: - Thơ mà truyền cảm được như thế là nhờ công uẩn nhưỡng.
BA NẠI HÀ: - Nhưng văn chương lại rất bình dị, nghe qua tưởng ai cũng có thể làm được dễ dàng.
Ông bạn láng giềng: - Biết đâu tác giả lại không mất ăn mất ngủ vì thôi xao. Nếu không có sách vở để lại thì chúng ta làm gì biết được họ GIÃ, họ MẠNH, Họ VƯƠNG…. Làm thơ khổ khắc, khi chúng ta rung đùi thưởng thức giai phẩm của quí ông. Nhớ đến câu thơ của Tản Đà:
Dâu xanh rút trả sợi tơ vàng,
Thân thế con tằm như tớ nhĩ,
Tơ tằm đòi đoạn mối văn chương!
Và:
      Bao nhiêu củi nước mới thành văn,
Được bán văn ra chết mấy lần!
Mà thêm thương cho người kim cổ sống về nghiệp văn thơ!
Lão cười:
-  Làm thơ là lẽ sống của con nhà thơ, cũng như kéo tơ là lẽ sống của con tằm. Lão tưởng không có chi đáng thương cả. Chưa biết chừng những kẻ chung số kiếp với tằm kia lại trở thương hại chúng ta là người không có lẽ sống như họ…. Âu là ai lo nghiệp nấy, chẳng cần ai thương hại ai…
Câu chuyện đương nồng thì bóng mặt trời đã lách vào song tây. Lão nhìn khách ngâm khẽ khẽ:
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn!
Ong bạn láng giềng ngâm đáp:
Thiên ý lân u thao,
Nhân nhàn ái vãn tình.

MẠN ĐÀ HOA và BA NẠI HÀ hỏi: - Là nghĩa làm sao?
Lão đáp: - Câu trên là câu thơ Đường, nghĩa là “Bóng nắng chiều thật tốt vô hạn, nhưng lại là lúc gần đến hoàng hôn”.
Ông bạn láng giềng: - Còn câu dưới, tớ mượn trong Tuỳ Viên Thi Thoại, ý nói: “Ý trời vốn thương những giống cỏ mọc nơi thâm sơn u cốc; còn người nhàn lại yêu bóng trời chiều tạnh ráo”. Như thế buổi mai có cái Đẹp cái quí buổi mai, buổi chiều có cái Đẹp cái quí buổi chiều… Việc gì phải nghĩ ngợi…
Chủ khách cả cười: - Như thế là ngày hôm nay của chúng ta không mất vậy./.
_____________________________________________________________
(1) Đã nói rõ trong bài “Thôi Xao” ở trước ( chương Đ mục 1)
(2) Đã nói ở chương Đ mục 1 ở trước.