9.
Vừa vào khỏi ngõ Đạo Thành đã la lớn:
-
Lão Vườn không “tận
kỷ”. Tại sao hôm trước chỉ dùng thơ Ngũ Ngôn để chỉ bệnh chớ không dùng thơ
Thất Ngôn?
Biết ông bạn mắng khéo là “bất trung” vì không hết
lòng làm cho người thông đạt cũng như mình, lão bèn mượn chữ “thứ” mà trả đũa:
-
“ Kỷ sở bất dục”
mà lại đem “thi ư nhân”, Hành vi ấy có hợp với “Đức Khổng Tử nói rằng” chăng
vậy? (1)
-
Tôi vu oan cho Lão
Vườn sao?
-
Chính thế. Vì
Thẩm Ước đã rút tám bệnh kia ở trong thơ Ngũ Ngôn ra, mà buộc lão dùng thơ Thất
Ngôn để chứng minh thì xin ông bạn xét lại xem có “thượng tôn luật pháp” chăng?
-
Chẳng lẽ thời Trầm
Ước không có thơ Thất Ngôn ư?
Nhận thấy Đạo Thành cũng như một số thân hữu đến thăm
Vườn, ít đọc văn học sử Trung Hoa, nên không biết đến lịch trình tiến triển của
thơ Trung Quốc, lão phải lặp lại những nét đại cương mà trước đây lão đã trình
bày: (2)
-
Từ đời Hán trở về
trước thơ Tứ Ngôn thạnh. Đời Nguỵ và đời Lục Triều thơ Ngũ Ngôn thạnh, Thất
Ngôn chỉ dùng làm những bài Nhạc Phủ. Qua đời Đường, thi nhân mới dựa theo luật
Tứ Thanh Bát Bệnh của Trầm Ước điển chế ra luật thi. Từ đời Đường trở về sau,
thơ Thất Ngôn thịnh hàng hơn thơ Ngũ Ngôn.
-
Như vậy Bát Bệnh
có áp dụng cho thơ Thất Ngôn chăng?
-
Có nhưng vị trí
và bệnh lý phần nhiều bị thay đổi. Bệnh BÌNH ĐẦU và THƯỢNG VỸ trong thất ngôn
không còn là bệnh của từng cặp sanh ra, như trong thơ Ngũ Ngôn.
BÌNH ĐẦU trong Thất Ngôn sanh ra do 2 chữ khởi đầu của
Khai Thừa, hoặc của Thừa Chuyển, hoặc của Chuyển Hiệp, đồng một loại từ với
nhau. (3)
Ví dụ bài ĐI THI TỰ VỊNH của Nguyễn Công Trứ:
Đi không
chẳng lẽ lại về không
Gánh nợ cầm
thư phải trả xong
Rắp mượn điền
viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân
thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong lúc
trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới rõ
mặt anh hùng.
Bốn câu giữa bị bệnh Bình Đầu, vì
những chữ Rắp Mượn, Trót Đem, Đã Mang, Phải Có, đều là những chữ đồng một loại
với nhau, hoặc ở 4 câu đầu, hoặc ở 4 câu giữa, hoặc ở 4 câu chót. Ví dụ bài
TÌNH BIỂN ÉN của Định Phong:
Mối tình biển én dệt văn chương (4)
Nở nụ cười xuân giấc hải đường
Điềm ứng thăng bình non vẳng phụng
Tranh vờn yên cảnh bút sanh hương
Mơ duyên Đằng các buồm theo mộng (5)
Dồi gót Lăng ba ráng điểm hường (6)
Ngày mới dám quên năm tháng cũ
Ô y đầu ngõ bóng tà dương. (7)
Những chữ non vẳng phụng, bút sanh hương, buồm theo mộng, ráng điểm hường, làm cho khúc đuôi của hai
liên đọc lên nghe bằng phẳng, như em bé vừa ngủ gật vừa học bài.
Bệnh Thượng Vỹ, căn nguyên nằm
tại chữ thứ 5. nếu chữ thứ 5 khác loại thì dù chữ thứ 6 thứ 7 có đồng loại cũng
coi là hợp thức, như 4 câu giữa bài Thăng Long Thánh Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh
Quan:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thào
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương…
Ứng chứng của bệnh Bình Đầu và
Thượng Vỹ là thế. Song chớ thấy hai hay ba chữ đầu, một hai ba chữ cuối của 4
câu liên tiếp cùng 1 từ loại, đã vội cho là một bài thơ bị bệnh. Bỡi nhiều khi
tài hoà hài của tác giả làm tiêu hẳn bệnh căn. Lão xin dẫn một bài thơ nổi danh
của Thi hào THÁI THUẬN đời Lê:
CHIÊU QUÂN XUẤT TÁI
Nam lai trình tận bắc lai trình
Nam bắc na kham trướng biệt tình
Vạn lý Hán thiên ba hữu lệ
Bách niên Hồ địa mã vô thanh
Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão
Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh
Phân phú quân vương an chẩm thưởng
Sầu thành nhất phiến thị trường thành.
Tạm dịch:
Bắc trình dõi bước dứt Nam trình
Nam Bắc đường
chia mối thảm đoanh
Trời Hán muôn
dòng hoa xót ngọc
Đất Hồ không
tiếng ngựa reo binh
Ao cài xuân
muộn bơ phờ dáng
Đàn gảy trăng
khuya não nuột tình
Nhắn nhủ cung
Rồng yên giấc ngự
Sầu thành một
bức vững trường thành.
Bài Hán Văn, cứ trên giấy trắng mực đen mà xét thì bị
bệnh Bình Đầu rất nặng, vì đoạn đầu của Hạm liên và Cảnh liên chẳng những có 2
chữ đồng loại mà có đến 4:
Vạn lý Hán
thiên...
Bách niên Hồ
địa...
Nhất đoàn la
ỷ...
Kỷ khúc tỳ
bà...
Nhưng từ 500 năm nay, không thấy ai bắt bẻ.
-
Tại sao vậy?
-
Tại vì trong Hạm
liên và Cảnh liên, tự loại tuy trùng, song tiết điệu lại khác. Theo ý thơ mạch
văn, câu hạm nghỉ hơi ở chữ thứ 2, câu cảnh nghỉ hơi ở chữ thứ 4:
Vạn lý / hán
thiên ba hữu lệ
Bách niên /
Hồ địa mã vô thanh
Nhất đoàn la
ỷ / thương xuân lão,
Kỷ khúc tỳ bà
/ tố nguyệt minh.
Cặp nấy có thể ngắt làm 3 đoạn, song không êm bằng
ngắt làm hai như thế. Về tiết tấu của thơ, có dịp sẽ nói rõ.
Vì tiết tấu thay đổi nên âm điệu được điều hoà, làm
tan biến không khí bằng phẳng của những chữ đồng loại đứng ngay hàng nhau.
Đối với bệnh Thượng Vỹ cũng thế. Âm điệu được hài mỹ
thì bệnh tự nhiên bị tiêu trừ. Ví dụ bài GIÓ KHUYA trong Mùa Cổ Điển:
Ngọn gió muôn
xa đưa đẩy vào
Nửa phòng mây
rộng một trăng cao
Sáo dìu dặt
nổi rừng dương liễu
Hương chập
chờn bay khóm trúc đào
Vàng ngọc
nhảy reo câu khiển hứng
Non sông
huyền hoặc sắc chiêm bao
Lòng chan
chứa biết bao cay đắng
Tan sạch còn
lưu chút ngọt ngào.
Rừng Dương Liễu, Khóm Trúc Đào, Câu Khiển Hứng, Sắc
Chiêm Bao rõ ràng là triệu chứng của bệnh. Nhưng nhờ chỗ đậu (césure) của Hạm
Liên đã không trùng (Hạm đậu ở chữ 4, Cảnh đậu ở chữ 2) mà sóng nhạc của hai
câu lại khác hẳn (nhạc của Hạm Liên thì dồn dập, nhạc của Cảnh Liên uyển
chuyển), thành ra “chất độc” của sự trùng tự loại tự nhiên bị "hoá giải” hoàn toàn.
Cũng xin nói thêm 1 điểm nữa về bệnh Thượng Vỹ:
Bệnh Thượng Vỹ gốc ở chữ thứ 5 như trước đây đã nói. Chữ thứ 5 của cặp trên
không đồng loại cùng chữ thứ 5 ở cặp dưới thì dù chữ thứ 6 thứ 7 có cùng một
loại cũng “thông qua”. Nhưng nếu chữ 5 năm của cặp trên cặp dưới mà đồng loại
thì dù chữ thứ 6 thứ 7 có khác loại cũng bị coi là bị bệnh, vì đọc nghe vẫn
không êm dịu thảnh thót:
VIẾNG LĂNG MAI ANH HÙNG
Lưng ngựa ba
đông dặm chiến trường
Hoành Sơn đá
chất nghĩa Cần Vương
Mây tuôn Linh
Đỗng hồn oanh liệt
Sóng dội Côn
Giang chí quật cường
Vòi vọi hiếu
trung bia chuốt ngọc
Làu làu thư
kiếm sử hồng hương (7)
Trăng lên ba
biểu chờ tin hạc
Một nén tinh
thành gió bốn phương
Bốn câu đầu khỏi bị bệnh Thượng Vỹ là nhờ điệu câu thứ
2. Bốn câu giữa, dù chữ thứ 6 thứ 7 không đồng loại, song vì chữ thứ 5 đều là
danh tự đứng hàng dọc thẳng băng như lính tập hợp nơi vận động trường, lại thêm
liên nào cũng nghỉ hơi ở chữ thứ 4, cho nên điệu thơ bằng phẳng (mo-notone) như
điệu đàn cò kéo đi kéo lại hoài.
Bài Viếng Lăng Mai Anh Hùng chẳng những bị bệnh Thượng
Vỹ mà còn bị bệnh HẠC TẤT.
Bệnh Hạc Tất trong Thất Ngôn nằm ở chữ thứ 4 và thứ 7
trong Ngũ Ngôn nằm ở chữ thứ 2 và thứ 5.
Chữ thứ 4 và thứ 7 Thất Ngôn chữ thứ 2 và thứ 5 của
Ngũ Ngôn được cùng một thanh và nhất là chữ Trường Bình. Nhớ câu năm nọ như
ngày nọ nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ.
-
Hiên quay vào núi mây giăng gấm
Cữa sát bên
đình gió thoảng trầm
-
Rừng um cổ thụ xôn xao quạ
Cỏ ngập hoang
thôn đủng đỉnh nai
Bệnh Phong Yêu ở Ngũ Ngôn không có. Ơ Thất Ngôn, bệnh
nằm ở chữ thứ 2 và thứ 7,
-
Tiếng quạ bên song nghe đã rộn
Mặt trời gác
núi ngắm thêm buồn
-
Lạnh lẽo rêu xanh in dấu cũ.
Bơ vơ én tía
liệng hiên không
Phong Yêu cũng như Hạc Tấc bệnh nặng nhất ở những câu
hạ vần:
Câu thì thẳng đơ như khúc gỗ. Câu thì dùn như giây đàn lỏng trục. Nghe không sướng tai.
Nhưng không phải luôn luôn là bệnh mỗi khi chữ thứ 4
điệp thanh cùng chữ thứ 7 (Hạc Tấc):
-
Bụi nhờn mặt trắng da đen sạm
Tuyết nhuộm
đầu xanh tóc bạc phơ
Tản Đà
-
Khói lồng sắc đá non phơi gấm
Chùa nức hơi
hương biển kéo mây
Bà
Bang Nhãn
Những câu này âm điệu hoà hảo. Không bệnh là nhờ biết
cách hoà hài.
Câu của Tản Đà vế trên không bệnh. Vế dưới nhờ chữ thứ
3 là tiếng trường bình làm cho chứng bệnh tiêu tan.
Câu của bà Bang Nhãn cả hai vế đều mang trạng thái của
bệnh. Song vế trên nhờ nhiều tiếng đoản thượng nâng điệu thơ lên cao khiến bệnh
không cần chữa mà tự nhiên khỏi. Ba chữ KHÓI ĐÁ GẤM đứng sừng sững như ngọn núi
cao vút trong dãy Thất Sơn mấp mô lên xuống. Chữ Sắc đứng kề chữ Đá lại còn
giúp cho “ngọn núi trung ương” thêm nguy nga đồ sộ. Câu thơ cả hình lẫn thanh
điệu xông xảo. Nghệ thuật thật là cao! Còn vế dưới nhờ chữ thứ nhất là tiếng
Trường Bình vừa giải trừ được bệnh, vừa giữ cho điệu thơ cao bằng điệu vế
trước.
Vế trước có thể gọi là độc đáo. Vế sau Bà Bang Nhãn
cũng như Tản Đà tiên sinh, đã học phương chữa bệnh của cổ nhân:
Thanh phong
giang thượng thu phàm viễn
Bạch Đế thành
biên cổ mộc sơ
Cao
Thích
Tạm dịch:
Buồm thu
nương ngọn thanh phong tếch
Cây cỗi ven
thành Bạch Đế sưa.
Cổ kim vị
kiến thiên niên quốc
Hình thế
không lưu bách chiến danh
Nguyễn Du
Tạm dịch:
Nước vững
nghìn thu đời chửa thấy
Thế đương
trăm trận tiếng còn lưu.
Đạo Thành:
-
Như thế bệnh
Phong yêu Hạc Tấc đều dễ trị.
-
Biết cách trị thì
không khó. Bằng không thì chẳng những không khỏi mà còn bị trúng thuốc. Bệnh
nào cũng thế chớ chẳng riêng gì bệnh Phong Yêu.
-
Còn bệnh Bàng Nựu
và Chánh Nựu?
-
Hai bệnh nầy
trong Thất Ngôn cũng không khác Ngũ Ngôn:
Trưa mai trở
lại trường Hưng Đạo
Lấy hết bài
hay để học thêm
Đó là Chánh Nựu
Trong hai câu này mỗi câu đến 3 chữ điệp âm: Bệnh khá
nặng song chỉ có hai chữ điệp âm ở cách nhau, nhất là ở vào những chữ nhì tứ
hay tứ lực, thì bệnh cũng phải cần chữa:
Cảm thương
Hoà Thượng chùa Long Khánh
Vừa đến Nha
Trang bị trúng phong.
Nghe lắp bắp lặp bặp như tiếng bánh xe gỗ chạy trên
đường có nhiều đá trái nằm lăn lóc.
Bệnh Bàng Nựu ở Thất Ngôn ít ai để ý vì chữ điệp âm
cách nhau có hơi xa:
Bến xưa người
cũ không qua lại
Hoa vút theo
xuân nở lạnh lùng.
Khi hai tiếng đồng âm mà vần với nhau thì được khoan
thứ, cho là hợp thức:
Trách cái tằm
xuân nhả mối tơ
Làm cho bối
rối mối tương tư.
Tản
Đà
Và không còn là bệnh, khi hai chữ đồng âm vần với nhau
mà một thuộc trường thanh, một thuộc đoản thanh:
Đêm suông
suông lắm cái suông suồng
Suông bạn
suông tình rượu cũng suông.
Bệnh Bàng Nựu Chánh Nựu không nặng bằng Tiểu Vận Đại
Vận.
Đại Vận dễ thấy vì nằm vào chỗ yếu điểm của thơ: Vần.
Còn Tiểu Vận dễ mắc vì ít ai để ý bởi ảnh hưởng đối với âm không lớn lao bằng
Đại Vận.
TIỂU VẬN trong
Ngũ ngôn nằm ở chữ thứ 2 và thứ 4. Trong Thất Ngôn, bệnh nằm ở chữ thứ 2 và thứ
6 hoặc chữ thứ 7.
Nằm trong câu không gieo vần, bệnh không quan ngại
lắm:
-
Cảnh cũ nhiều phen thay chủ mới
Đường xa kinh
nỗi suốt đêm thâu
Tản Đà
-
Quê người đành gởi thân trăm tuổi
Cuộc thế mong
gì nợ bốn phương.
Thượng
Tân Thị
-
Tấm thân vì nước gian nan mược
Gánh nợ làm
trai nặng nhọc đành.
Khuyết danh
Nhưng bệnh nằm trong câu gieo vần thì nên “mời bác
sĩ”.
-
Khói toả hồn hoa hoa lẩn quẩn
Mây lồng bóng
nguyệt nguyệt long lanh (8)
Câu nầy nhờ chữ hoa chữ nguyệt lặp đi lặp lại gây âm
hưởng vui tai làm khuất bớt bệnh trạng. Có thể bỏ qua được. Đến như câu sau
đây, thì không nên sợ “tốn công tốn của”:
-
Gió lọt song khuya hàng sáp chã
Mưa dầm đêm
quạnh ruột tằm khô
Lại càng phải lo chữa khi cả hai vế tiếp nhau đều có
bệnh:
-
Mùi hương chợt thoảng trong sương sớm
Nhớ hẹn năm
xưa luống thẹn thùng.
Cũng thuộc về bệnh tiểu vận, hai hay nhiều chữ đồng
vận nằm gần nhau, mặc dù ở ngoài nơi cấm kỵ:
-
Trời tây ác rũ mây về núi
Nương quạnh
hương theo gió lọt rèm.
-
Lòng thơ những lúc mơ người cũ
Mực dẫn tràn
hương bút vẫn khô!
-
Tuổi già khó nỗi đền ơn nước
Lệ thảm tuôn
khi cảm việc đời
-
Luỹ xưa rậm rạp mây xây núi (9)
Phố cổ đìu
hiu lá đổ mưa.
Các câu bị bệnh tiểu vận đọc lên nghe mường tượng như
tiếng nhái của lũ trẻ tinh nghịch. Người đã quen cùng những giọng thanh tao
lịch sự không mấy vui tai.
ĐẠI VẬN, bệnh nặng nhất khi nằm ở chữ thứ 4 và chữ thứ
7 câu gieo vần, tức là chữ thứ 4 đồng vận cùng vần câu thơ:
-
Mưa sa nước chảy lên cao ở
Lửa đỏ dầu
sôi nhảy tới chơi
Tú
Quì
-
Thôi thôi dại sớm thời khôn sớm
Nhắn kẻ chưa
què chớ vội khoe
Định Phong
Chữ thứ hai mà đồng vận cùng vần câu thơ cũng nên
tránh vì thanh vận bị giảm:
-
Gầy gọ gió sương tùng thế miếu
Bẽ bàng trăng
nước trúc Hương Giang
(Q.T.)
Đó là bệnh tiểu vận không nặng, song Chu Lang không
vừa lòng. Nhưng vì ý nên có khi đành phụ lòng tri âm.
Nói tóm lại là tám bệnh của Trầm Ước tìm ra trong thơ
Ngũ Ngôn vẫn có trong thơ Thất Ngôn luật thi, mặc dù Luật đã được điển chế.
Nhưng sang Thất Ngôn 2 bệnh Bình Đầu và Thượng Vỹ không còn thuộc về Thanh mà
trở thành bệnh của Tự loại không khéo dùng ở câu đầu và câu thơ. Thành ra âm,
thanh, vận chỉ còn mỗi thứ 2 bệnh.
Đạo Thành:
-
Ngoài 8 bệnh của
Trầm Ước, lão vườn có thấy bệnh nào nữa chăng?
-
Những thi nhân
học giả sanh sau Trầm Ước và sanh trước kẻ hậu sanh này, còn tìm thấy đến vài
chục bệnh nữa. Nhưng đối với tất cả mọi bệnh, hễ nội công ngoại kỷ mà luyện cho
cao độ, thì không cần đến lương y. Tuy thế người mới bước vào làng thơ cũng nên
biết mấy bệnh thông thường nầy để tránh: Khổ độc, điệp âm…
Bệnh Khổ độc nhiều người thường mắc lắm, vì nằm trong
số chữ bất luật của Luật thơ. Ở Ngũ ngôn thì bệnh nằm ở chữ thứ nhất. Ở Thất
Ngôn bệnh lại nằm ở chữ thứ 3. Chử thứ nhất của Ngũ ngôn, chữ thứ 3 của Thất
Ngôn, tiếng đáng Trắc đổi ra bằng thì được, song tiếng đáng bằng mà đổi ra trắc
thì sanh bệnh ngay:
VỊNH HAI BÀ TRƯNG
Một dạ em
cùng chị
Hai vai nước
với nhà
Nêu cao cờ
độc lập
Muôn thuở đức
hai bà
(Khuyết
danh)
Đó là bài Ngũ Ngôn không bệnh. Nếu chúng ta thử đổi
bằng ra trắc ở những chữ thứ nhất của các câu thì liền thấy khó đọc:
Một dạ em
cùng chị
Nặng vai nước
với nhà
Dựng cao cờ độc
lập
Vạn thuở
tiếng hai bà.
Những người không rành thanh luật, xem qua hai bài
cũng nhận được chỗ hơn kém.
Còn Thất Ngôn thì như câu luận trong bài Chê Gái Lấy
Chồng Già của cụ Nguyễn Đức Nhuận:
Liên Kiều
thước bắt so le nhịp
Sơn dác ngựa
đua hụt chạt roi.
On Đình Quân đời Đường có một câu thơ được truyền tụng
nhưng vì đọc trại thanh ở chữ thứ 3 của một vế mà thành hư câu thơ:
Dạ văn mãnh
vũ phan ba tận
Hàn luyến
trọng khâm giác mộng da.
Câu đó phải đọc:
Dạ văn mãnh
vũ phan ba tận
Hàn luyến
Trùng khâm giác mộng da.
Vì TRỌNG và TRÙNG là một chữ mà đọc thành 2 tiếng, tuỳ
trường hợp mà thay đổi bằng trắc. Người không rành âm điệu không biết tuỳ nghi,
làm hỏng câu giai tác.
Đạo Thành:
-
Lão Vườn thử dịch
câu ấy ra Quốc Âm.
-
Dịch là diệt.
Dịch là phản. Dù có gắng đến đâu cũng không lột được cái hay của nguyên tác:
Đêm gieo mưa
nắng hoa tàn tạ
Lạnh quyến
mền đôi mộng dập dồn
-
Chữ TRÙNG thay
chữ TRỌNG làm cho câu thơ trúc trắc trở thành nhịp nhàng. Cổ Nhân thường nói “Một chữ làm cho câu thơ đương chết thành sống, một chữ làm cho câu thơ đương
sống thành chết” là vậy đó.
Đạo Thành:
-
Nhưng tại sao chữ
thứ 3 cũng là tiếng trắc mà câu nầy của Lão vườn nghe lại êm tai:
Dìu dặt tiếng
ve còn vẳng đó
Vội vàng cánh
nhạn rủ về đâu?
-
Vế thứ nhất bị
bệnh, nhưng thứ nhất nhờ bệnh nằm ở vế không gieo vần, thứ hai nhờ chữ thứ nhất
là chữ trường bình làm giảm bớt sức nặng và chát của tiếng trắc ở chữ thứ 3. Do
đó âm điệu câu thơ được điều hoà, giọng nghe êm chớ không xẳng như đọc câu: Réo rắt tiếng
ve còn vẳng đó
Còn vế dưới không bệnh
Câu của cụ Nguyễn Đức Nhuận, theo luật là phải:
“Trắc trắc Bình bình trắc trắc vần”. Tức là chữ thứ 3
phải bình. Thế mà cụ lại hạ tiếng trắc là chữ NGỰA cho nên mới khó đọc. Còn câu
của lão, theo luật đúng như “Bao công xửa án” kia mà.
Đạo Thành:
-
Rõ là “Tự kỷ văn
chương”!
-
Không phải vậy
đâu. Câu đó theo luật “Bình bình trắc trắc trắc bình vần”. Chữ thứ nhất đáng
bình mà lão để trắc, không phạm luật. Còn chữ thứ 3 là chữ trắc của luật định,
lão cũng để trắc, thì bắt tội lão nỗi gì?
Dìu dặt tiếng
ve còn vẳng đó
Vội vàng cánh
nhạn rủ về đâu. (10)
Thật không bệnh. Vế trên có bệnh nhờ tiếng trường bình
là chữ DÌU hoá giải. Còn vế dưới tuy không bệnh, nhưng nếu chữ thứ nhất và thứ
nhì không phải là trường thanh (vội:trường khứ, Vàng: tr. Bình, mà là đoản
thanh, thì âm điệu cũng không được hài mỹ. Ví dụ câu trạng bài Về Thăm Nhà Cảm
tác của lão:
Trống trải ba
gian nhà nhện choáng
Ngửa nghiêng
bốn mặt dậu bìm leo (11)
Luật bằng trắc câu nầy cũng in câu trên, và vế thứ 2
cũng không có bệnh. Song vì 2 chữ Ngửa Nghiêng, một là đoản Thương, một là đoản
bình, khiến câu thơ kém nhạc. Nhạc thơ sẽ trở nên êm ái nếu 1 trong 2 chữ đó
đổi ra trường thanh.
Đạo Thành:
-
Vậy sao lão vườn
không đổi
-
Chưa tìm ra chữ
thích đáng.
- Đã gọi là Bất Luận, mà vẫn không được hoàn toàn tự
do sắp đặt bằng trắc!
- Việc thơ cũng như việc đời, có nhiều việc hợp pháp
mà không hợp lý, cũng có việc hợp lý mà không hợp pháp. Cho nên Tây triết có
câu “Không có qui tắc nào là không có ngoại lệ” (Il n’y a pas de règle sans
exception confirme la règle), vì nếu không có qui tắc thì làm gì có ngoại lệ.
Bởi vậy áp dụng qui tắc không nên áp dụng một cách máy móc.
- Hãy nói về bệnh điệp âm.
- Trong một câu thơ có nhiều chữ cùng một âm, thì đọc
lên nghe lắp bắp (cacophonie), nhất là 3 tiếng điệp âm đứng sít nhau hoặc đứng
trong một tiết tấu:
- Trót đã trổ
trời đi đến chị
Đành cam đục
đất cố cầu anh. (12)
- Mưa tan tác liễu trôi ngần mặt
Móc võ vàng
ve tạt bức rèm
(Cung
Oán Thi)
-
Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối
rối mối tương tư
(Tản Đà)
-
Đi không cũng khó đành khiên tạm
Khiên tạm
khuôn tròn thật khó khiên
Bệnh Điệp Âm tương tợ bệnh Bàng Nựu, cho nên có thể
coi như một cho dễ nhớ.
Để hình dung một ý trừu tượng, để minh thị một dáng
dấp tự nhiên, để diễn tả một nhịp điệu…, thi nhân thường lối điệp âm; như câu
thơ của vua Tự Đức:
Đua chen
trước mắt mây mờ mịt, (13)
Đày đoạ sau
thân núi nặng nề
“ Mây Mờ Mịt” vừa tả cảnh đen tối vừa gợi ý rối răm. “Núi
Nặng Nề” vừa diễn ý đè nén, vừa vẽ cảnh chập chồng.
Tản Đà tiên sinh cố ý dùng ba chữ “bối rối mối” để
hình dung vẻ bối rối của lòng tương tư. Song lão nhận thấy không đạt được ý,
nên ghi vào sổ “phong thần” của “viện chữa bệnh thơ”.
Cụ Nguyễn Khoa Vy lại chế bệnh điệp âm thành thể thơ
Điệp Âm:
Chạy chữa
chai chân chẳng chịu chừa
Chín chìu
chua chát chán chê chưa
Cha chài chú
chớp chơi chung chạ
Chẳng chính
chuyên chi chớ chực chờ.
Bệnh thơ ví cũng như những cái mắt cái u trên khúc gỗ
và người làm thơ giỏi ví cũng như anh thợ chạm khéo. Nhiều khi nhân chỗ tỳ vết
của gỗ mà nảy ra tứ, biến bệnh thành lợi. Những cái mắt, những cục u kia được
chạm trổ thành những đám mây vương nơi cách chim hạc, hoặc một hòn minh châu
làm nổi bật vẻ tranh đấu của 2 con rồng.
Nhưng đó là những tiểu xảo. Đôi khi dùng chơi cho vui
chớ không nên lạm dụng.
Còn một bệnh nữa, người làm thơ vô ý cũng thường hay
mắc phải. Đó là bệnh Điệp Thanh.
Một câu thơ dùng nhiều đoản thanh quá nhất là đoản
bình thanh thì câu thơ nghe ngang chạng, tục gọi là “Đục”. Còn nếu dùng nhiều
trường thanh quá, nhất là trường bình thanh thì câu thơ nghe chìm lỉm như tiếng
nói của người mắc bệnh sốt rét kinh niên. Cũng có thể nói là một bên quá thẳng,
một bên quá dùn, nghe không thích thú:
Mở ngắm tranh
xưa thôn vẫn đó
Về tìm trường
cũ bạn còn đâu
Vế trên chỉ có một tiếng trường thượng (Vẫn)
Vế dưới chỉ có một tiếng đoản bình (Đâu)
Điệu thơ một bên quá cao, một bên quá thấp.
Bến chiều
lạnh lẽo thuyền về chậm
Ngõ vắng lao
xao sóc nhảy mau.
Vế trên chỉ có một tiếng đoản khứ (Bến)
Vế dưới chỉ có một tiếng trường khứ (Ngõ)
Thành ra điệu thơ cả hai vế đều không điều hoà.
Về Trường Và Đoản, ở các thanh Thượng, Khứ, Nhập,
không quan trọng bằng ở thanh Bình, Trường bình thường làm cho câu thơ mềm yếu,
như những câu thượng dẫn. Nhưng lại thường cứu được câu thơ khỏi bệnh.
Ví dụ câu “Mở
ngắm tranh xưa thôn vẫn đó”, đoản thanh chiếm hết 6 chữ. Nhưng xét cho kỹ,
câu thơ bị “đực” là do nhiều đoản bình thanh. Nếu chúng ta đổi một tiếng đoản
bình ra trường bình, hay một đoản thanh nào khác ra trường bình, thì điệu thơ
được điều hoà ngay:
-
Mở bức đồ xưa thôn vẫn đó,
-
Nhìn bức tranh xưa thôn vẫn đó.
Còn trong những câu nhiều trường thanh quá thì bớt đi
một vài tiếng trường bình câu thơ trở nên cân cái:
-
Về nơi trường cũ bạn còn đâu
-
Tìm về chốn cũ bạn còn đâu.
Vì vậy về bệnh Điệp Thanh, khách thơ chú trọng đến
Bình Thanh hơn các thanh khác.
Đạo Thành: - Trước kia tôi lầm tưởng Thanh cũng như
Âm, Âm cũng như Thanh. Nay mới rõ là có chỗ dị đồng. Và trước khi biết rõ bát
bệnh của Trầm Ước, tôi đã từng nghe nói đến bệnh Điệp Chưởng và bệnh Điệp Sàng
Dá Oc. Nhân nghe mấy tiếng Điệp Âm và Điệp Thanh, tôi chợt nhớ đến 2 bệnh ấy.
Và biết rằng cũng như Thanh và Âm, hai bệnh ấy có chỗ khác biệt nhau chớ không
phải hai lời nói một ý nghĩa. Vậy mong Lão Vườn chỉ điểm.
-
Hai bên đều nói
về sự trùng ý. Song Điệp Sàng Dá Oc là bệnh trùng ý của toàn chương hay toàn
thiên, ý trùng điệp nhau như giường chồng lên nhau, nhà gác lên nhau. Còn Điệp
Chưởng là bệnh trùng ý của hai vế trong một liên, hoặc của hai liên kế cận, như
hai bàn tay đấu chưởng.
-
Xin cho vài bài
làm mẫu.
-
Nhớ sao nổi những
thứ thơ dở! Nhưng cũng may lúc nhỏ lão thuộc được bài thơ PHÁO TRE của một vị
tiền bối tục gọi cụ Hương Kiểu ở thôn Nhơn Thuận, quận Bình Khê, tỉnh Bình
Định. Lời văn đẹp, ý thơ cũng dễ ưa, song hạm liên và cảnh liên đều bị bệnh
Điệp Chưởng. Tác giả không tự biết mà phần đông độc giả cũng không ai biết. Mãi
đến khi học được chút đỉnh Thi Pháp lão mới biết là bài thơ có bệnh. Không ngờ
nay có dịp dùng đến, mới biết là “tiền duyên”:
Đông tàn xuân
đã tới đây be
Bốn phía rền
vang nổ pháo tre
Mắn tiếng
giật mình loài quỉ xó
Nghe hơi mất
vía lũ ma hè
Trêu người
trướng gấm kinh hồn điệp
Ghẹo kẻ màn
loan tỉnh giấc hoè
Trừ cựu mượn chàng vang một tiếng
Mừng xuân
muôn cửa chán tai nghe.
Đạo Thành: - Những bệnh lão vườn nói trước đây là
những bệnh Ngoại Thương. Hai bệnh tôi nêu ra đó là hai bệnh Nội Thương. Nội cũng
như Ngoại chắc còn nhiều lắm. Nhưng thôi, tôi không nỡ biến Vườn Hoa Thơ của
lão thành lớp giảng “Thực vật học”, hay Vườn thí nghiệm của Sở Canh Nông, và
biến Lão Vườn thành ông giảng viên về các bệnh của thảo mộc.
Hầu mong bổ sung cho những lời bàn của chúng ta nãy
giờ lão xin thêm: Muốn cho âm điệu được
hài mỹ thì Bình Trắc phải hoà hiệp, Trường Đoản phải thoả thiếp, Hướng lượng
phải tương xứng, Dương Ức phải tương ứng (14). Cổ nhân dặn: “Âm vận kỵ tán
hoãn, kỵ bức xúc" (15), tức cũng như dây đàn không nên dùn cũng không nên
thẳng quá.
Nhưng theo kinh nghiệm bản thân của lão thì lo trau
dồi âm tiết không bằng lo nuôi dưỡng
tánh tình. Hễ thần khí sung dũ thì bệnh tự tiêu, lời tự ổn, âm điệu tự điều
tiết. Cũng như con người sức khoẻ đầy đủ thì tự nhiên “lương y bất đáo gia”.
__________________________________________________________________
(1)
Cổ nhân giải
thích nghĩa chữ TRUNG:
-
Tận kỷ vị chi
Trung. (hết mình tức là trùng).
-
Trung: Dục lập
nhi lập nhân, dục đạt nhi đạt nhân (Mình muốn đứng vững mà làm cho người cũng
đứng vững, mình muốn đạt nên làm cho người cũng đạt như mình).
Nghĩa chữ THỨ: Sở kỷ bất dục vật thi ư nhân (Cái gì
mình không muốn chớ nên đem làm cho người) cũng như câu: Ne fais pas à autrui ce que tu ne
veux pas qu’on te fit.
(2) Xem những bài trước đây.
(3) Đây chỉ nói về Thanh điệu chớ không nói về ý thú.
(4) Biển En là Nha Trang, vì biển Nha Trang có nhiều
hòn lao có yến sào, nên tục gọi là Hải Yến.
(5) Mượn tích Vương Bột dong thuyền đến Đằng Vương
Các.
(6) Mượn tích Bí Phi lướt sóng ở Lạc Phố. Bài thơ Tình
Biển En trích dẫn chỉ có mục đích trình cho các bạn thấy rõ bệnh Thượng Vỹ.
(7) Mượn ý câu “ Ô Y hạng khẩu tịch dương tà” để hồi
cố lên câu khởi cho đúng phép làm thơ và cũng để gởi chút tâm sự.
(7) Bài nầy văn chương có lực, tình cảnh lại chân
thiết, riêng tiếc có bệnh. Nếu sửa lại câu cảnh liên được thì quí lắm.
Lăng anh hùng Mai Xuân Thưởng ở trên triền Hoàng Sơn
quận Bình Khê. Phía NÂm có Kinh Đỗng là mật khu của nghĩa binh Cần Vương, phía
Bắc có sông Côn chảy cạnh làng anh hùng.
(8) Đây là 1 câu trong tập CUNG OÁN THI chưa rõ tác
giả là ai. Có người bảo là của On Như hầu song không dám tin.
(9) Nếu những chỗ bị bệnh mà câu trên câu dưới đều
bệnh cân nhau thì hết bệnh, vì là sự cố ý của tác giả: Ví dụ trên “ mây xây
núi” mà dưới “ lá rã mưa”.
(10) Câu này còn nhiều điểm dễ thương về âm điệu, nhưng vì ở đây chỉ nói về bệnh, nên không dám dài dòng.
(11) Khoảng 1937 - 1938 Tản Đà Tiên Sinh đã bảo tìm
chữ sữa lại, song mãi đến nay vẫn chưa tìm ra chữ vừa ý.
(12) (13) Hai câu: “ Trót đã… Đành cam…” để riêng ra
thì mới bị đánh, còn để chung lại thì được chấp nhận bỡi vì nhờ bệnh đối với
bệnh rất chỉnh. Hai câu của vua Tự Đức cũng thế. Nếu vế trên để là “ mây tan
tác” thì vế dưới bị bệnh nặng nề.
Câu “ Trót đã.. Trổ trời” đã bị bệnh điệp âm ở những
chữ 1,3,4, lại còn bị bệnh ở những chữ 2, 5, 6. Thế mà nhờ đối khéo nên được
hưởng 2 chữ “ bình an”.
Cho nên đối ngẫu cũng là 1 lợi khí trong việc điều
khiển âm thanh.
(14) Xem thêm bài số 10 ở sau, điền này có nói lại bốn
lần nữa.
(15) Tán hoãn: Rời rạc chậm chạp
Bức xúc: Gấp rút hối hả như bị bức bách.