ẤP TÂY SƠN
Ấp Tây Sơn là nơi phát tích của Bình
Định tam hùng: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.
Ấp gồm phần đất An Khê và phần đất Bình
Khê, tỉnh Bình Định.
Và chia làm ba phần:
Tây Sơn thượng là vùng An Khê.
Tây Sơn Trung, từ chân đèo An Khê đến
Hữu Giang, Tả Giang.
Tây Sơn Hạ, từ Trinh Tường, Phú Lạc đến
Thọ Lộc, Lại Nghi, Thú Thiện, An Chánh, Văn Tường, Kỳ Sơn, Thuận Truyền, Thuận
Hạnh...
Cụm tháp Bình Nghi (Phú Thiện) ở phía
nam sông Côn và cụm tháp Dương Long ở phía bắc sông Côn là hai trụ ranh giới
phía đông của ấp.
Phía đông là đồng bằng phì nhiêu.
Phía tây và phía nam, núi non hiểm trở,
điệp điệp trùng trùng.
Phía bắc, nửa trên là núi dính liền với
dãy núi phía tây, nửa dưới là đồng bằng dính liền với đồng bằng phía đông.
Dòng sông Côn phát nguyên trên dãy
trường sơn chạy xuống biển Thị Nại, chia ấp Tây Sơn ra làm hai, nửa phía nam
nửa phía bắc, chạy dọc theo dòng sông, tứ mùa lúa dâu bắp đỗ thay nhau làm tăng
vẻ giàu sang cho núi non hùng hiểm.
Núi có nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ
hiên ngang; được nhiều người chú ý là những ngọn có di tích lịch sử, như:
Ở vùng An Khê có núi Hiển Hách, tục gọi
là Hảnh Hót, sử chép là Hinh Hốt. Đó là một danh sơn có nhiều cây quý và chung
quanh có nhiều ngọn núi quy triều. Núi vùng An Khê liên tiếp với vùng cao
nguyên ở phía Tây, và phía đông đèo An Khê nối liền Tây Sơn Thượng với Tây Sơn
Trung.
Đèo An Khê, xưa gọi là đèo Vĩnh Viễn,
cao 740 thước và dài trên 10 cây số, chạy từ Tây xuống Đông đường đi rất hiểm
trở. Trước kia, lúc Quốc lộ 19 chưa mở, hành khách qua lại phải chịu nhiều gay
go. Dọc đèo có nhiều nơi dốc ngược, đá mọc lởm chởm, có khúc phải dãng hai chân
mà leo mới khỏi té. Nơi này tục gọi là dốc Chàng Hảng. Dưới dốc Chàng Hảng về
phía đông có một cái nghẹo, nơi nghẹo có một cây khế rất sai quả. Khách qua đèo
thường dừng chân nơi gốc khế để nghỉ ngơi và giải khát. Nghẹo ấy gọi là Nghẹo
cây khế. Cách nghẹo cây khế chừng vài trăm bước có hai cây cổ thụ, thân cao tàn
cả. Một cây ké, một cây cầy. Đó cũng là hai trạm nghỉ chân của hành khách.
Dưới chân đèo, thuộc Tây Sơn Trung, núi
cũng cao chớm chở như vùng Tây Sơn Thượng. Ngọn núi có danh nhất là hòn Ông
Bình. Núi tuy không cao lắm chỉ có 793 thước, song trông rất kỳ vĩ và có vẻ bí
hiểm. Cây cối sầm uất, ngó mịt mờ thăm thẳm như không có đường lưu thông. Nhưng
kỳ thật thì có nhiều nẻo vào ra, thông thương với các ngọn núi chung quanh cùng
các con đường hẻo lánh trong vùng.
Đối trĩ [1]
cùng hòn Ông Bình, có hòn Ông Nhạc, khí thế cũng rất hùng hiểm.
Từ hòn Ông Nhạc núi chạy từng lớp, từng
lớp, lớp chạy thẳng vào Nam, lớp chạy xiên xiên xuống hướng Đông - Nam. Danh
sơn đều nằm trong dãy Đông Nam. Trước hết là hòn Tâm Phúc hình như chiếc nón
lá, nhiều cổ thụ và heo rừng.
Đồn rằng núi rất linh thiêng vì bà Thiên
- Y - A - Na thường tới lui hào quang sáng chói. Trong núi, hễ lúc mặt trời gần
lặn, người ta thường nghe tiếng ụt heo inh ỏi. Người địa phương bảo đó là tiếng
của bộ hạ của bà Thiên - Y. Núi Tâm Phúc có tên nữa là núi Bà Phù.
Đối trĩ cùng núi Bà Phù có núi Màn Lăng.
Thầy địa lý gọi Màn Lăng là hòn Nhật, hòn Bà Phù là hòn Nguyệt.
Giữa Màn Lăng và Bà Phù
có một thung lũng bằng phẳng và kín đáo, tục gọi là Hóc Yến.
Qua khỏi Hóc Yến đền
núi Đồng Phong tục gọi là hòn Lãnh Lương.
Đi xuống nữa, đến địa
đầu Tây Sơn Hạ, thôn Trinh Tường, đến dãy Hoành Sơn tục gọi là núi Ngang.
Những ngọn núi từ hòn
ông Nhạc chạy xuống đều chạy theo hàng dọc. Hòn Hoành Sơn lại chạy ngang.
Hoành Sơn chỉ cao 364
thước, nhưng dài và rộng. Phía tây và phía nam, dòng suối Động Tre và chí lưu
ôm sát bên chân. Sông Côn chạy dài ở phía bắc. Trước mặt đồng Trinh Tường tiếp
đồng Phú Phong, mênh mông bát ngát.
Hoành Sơn là đại địa,
vì có nào bút, nào nghiên, nào ấn, nào kiếm, nào chung, nào cổ, ở bên tả bên
hữu. Và trước mặt, trên ba nổng gò đất, đá mọc giăng hàng giống như những toán
lính đứng hầu, xa xa có long bàn hổ phục.
Bút là hòn Trưng Sơn ở
thôn Phú Lạc bên kia sông Côn, xa trông như ngòi bút chép mây.
Nghiên là hòn núi Hợi
Sơn tục gọi Hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trĩ cùng
hòn Trưng Sơn ở phía bắc. Trên đầu núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh
năm không bao giờ cạn. Dân hàn mặc[2] coi
vũng nước là nghiên mực của trời nên gọi hòn Dũng là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên.
Hòn Nghiêng và hòn Bút
nằm bên tả bên hữu hòn núi ngang, trông rất cân đối. Đứng xa mà ngắm thì hòn
núi Ngang là bức bình phong còn hòn Nghiên hòn Bút là hai trụ ba biểu[3].
- Sát bên chân và trước
mặt núi Ngang, có hai hòn núi nhỏ là hòn Một và hòn Giải. Hòn Một giống hình
cái chuông, nên cổ nhân gọi là Chung Sơn. Hòn Giải giống như cái trống chầu nên
có tên gọi là Cổ Sơn. Nhìn chung, thật giống chuông và mõ đặt trước án thờ.
- Hòn Giải, đứng phía
bắc trông vào thì giống cái trống. Nhưng đứng phía đông mà nhìn lại phảng phất
một quả ấn. Vì vậy hòn Giải còn có tên nữa là Ấn Sơn.
Đặt cho hòn Giải tên Ấn
chẳng phải chỉ vì hình dáng, mà còn vì phía đông cách Hoành Sơn không xa có hòn
núi thấp mà dài mệnh danh là Kiếm Sơn tức hòn Kiếm. Đã có kiếm thì phải có Ấn
mới đủ đôi.
- Phía trên hòn Kiếm
cũng trong phần đất Trinh Tường có hòn ông Đốc, hình thù giống như một con hổ
phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Đó là “Hổ cứ” như trên đã nói.
- Còn dòng sông Côn đến
cuối Trinh Tường, đầu Phú Phong thì nhận nước con sông Đá Hàng, một chi lưu từ
Đồng Le ở phía nam chảy ra. Hai ngả sông này tạo thế “long bàn” ôm choàng lấy
cuộc đất núi Ngang.
Từ núi Ngang (Hoành
Sơn) trở vô, càng vô trong, núi càng cao. Nhiều ngọn cao trên dưới nghìn thước,
trừ các thợ rừng tuổi tác, người đồng bằng ít ai biết tên. Người ta gọi chung
cả dãy là Núi Xanh vì đứng ngoài nhìn vào sắc núi xanh như nhuộm.
Từ núi Ngang trở xuống
Tây Sơn Hạ, càng xuống, núi càng chạy xiên vào nam, nhượng chỗ cho đồng bằng.
Đó là núi non nằm phía
nam sông Côn.
Phía bắc sông Côn, núi
vùng Tây Sơn Trung cũng có nhiều ngọn cao lớn. Như hòn Ngăn, hòn Bong Bóng ở
Vĩnh Thạnh, trông có vẻ ngang ngược như muốn ngăn lối chặn đường thiên hạ đi
rừng. Bốn mặt lại có suối khe bao bọc. Thế rất hiểm. Phía đông hòn Ngăn, cách
một dòng suối, có hai ngọn nút cao ngất, đứng song song như hai răng nanh. Đó
là hòn Vỏ Cá và hòn Da Két.
Núi càng đi xuống đông
thì càng thấp dần.
Sau hòn Vỏ Cá, hòn Da
Két, còn hòn Bạc Má và hòn Nước Đỏ. Hai hòn này có thể coi là một, nếu không có
đèo Bồ Bồ chạy ở giữa. Đèo mở đường giao thông cho khách ở phía đông lên phía
tây, ở phía tây xuống phía đông. Núi đèo đều có hình thù và sắc thái đặc biệt,
không thể tả nổi.
Xuống đến Tây Sơn Hạ
thì núi không còn liền dây. Hòn Trưng Sơn ở Phú Lạc là hòn núi cao nhất vùng.
Hòn Trưng chỉ cao 422
thước, nhưng trông rất khôi hùng. Trông gần thì mập mạp hung ăng như con bò đực
sung sức lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Nên người địa phương gọi là hòn Sung.
Ở xa thì giống như ngọn bút, cùng với hòn Nghiên bên kia sông Công làm “bạn văn
chương” như trên kia đã nói. Lưng núi thì nổi từng vồng u như bị đánh sưng. Nên
nhiều người gọi là hòn Sưng thay Sung. Theo các phụ lão địa phương thì núi có
tất cả chín cục u, gọi là “Cửu diệu tinh”. Hai u lớn nhất, một trông giống răng
bò nghé, gọi là Đốc Xỉ, một giống u bò nghé, gọi là độc nhũ. Trong các sách địa
phương chí xưa, nhiều sách lấy tên hai cục này để gọi hòn Trưng Sơn: Độc Xỉ
Sơn, Độc Nhũ Sơn.
Trưng Sơn là Tổ sơn
trong vùng núi ở bắc ngạn sông Côn. Mặt hướng về đông nam và lấy dãy Sơn Triều
Sơn ở Cầu Gành thuộc An Nhơn, làm tiền án. Còn sơn mạch thì lại chạy thẳng
xuống hướng đông, đến hòn Mạ Thiên Sơn, tục gọi là hòn Mò O - ở giữa An Nhơn và
Phù Cát - thì hồi cố. Phía trước mặt và hai bên tả hữu, gò đống nổi đầy, cuồn
cuộn nhấp nhô như sóng biển. Và những ngọn núi ở xung quanh đều xây mặt về
triều, cũng như các vị đại thần đứng chầu một đấng anh quân. Còn những gò đống
kia là những quân lính dàn hầu.
Từ hòn Trưng Sơn trở
xuống là đồng bằng. Nếu không có con sông Côn, thì cánh đồng này liền với cánh
đồng phía nam.
Giữa cánh đồng, rải rác
nổi lên những hòn núi đất, như hòn Hương Sơn, hòn Trà Sơn, hòn Khánh Long, hòn
Chà Rang.
Hòn Hương Sơn giống như
con chó nằm ngủ.
Hòn Trà Sơn và hòn
Khánh Long thì giống như hai con cừu.
Ba hòn núi này là ba
hòn núi trọc. Hòn Chà Rang không có hình dáng đặc biệt như ba hòn núi kia,
nhưng có nhiều cây chà là, đến mùa trái chín thì người ta rủ nhau lên hái rất
đông đảo, cho nên có tiếng.
Núi non vùng đất Tây
Sơn đại khái là thế.
Nói tóm lại về hình thế
và vùng đất Tây Sơn như sau:
Tây Sơn Thượng gồm trọn
vùng An Khê, núi non trùng điệp, đất bằng ít.
Tây Sơn Trung gồm phần
đất từ chân đèo An Khê chạy xuống đến cuối Bình Giang. Hòn Núi Ngang làm mốc
ranh giới cho hai vùng Trung, Hạ. Vùng Trung cũng như vùng Thượng, núi nhiều
hơn đồng.
Tây Sơn Hạ bắt đầu từ
Trinh Tường trở vô, Phú Lạc trở ra, và chạy xuống đến Thú Thiện. Thọ Lộc trở
vô, An Chánh, Vân Tường trở ra. Đồng bằng chiếm gần trọn vùng.
Dòng sông Côn làm sợi
tim đèn cho hai vùng Trung Hạ.
Núi non thì hùng hiểm.
Đồng ruộng thì phì nhiêu. Rõ có thể dụng binh. Cho nên cuộc khởi nghĩa của ba
anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, trước kia và cuộc khởi nghĩa của Mai
Xuân Thưởng thời Pháp sang Việt nam, đều phát xuất tại vùng Tây Sơn[4].
NHÀ TÂY SƠN
Ấp Tây Sơn là nơi phát
tích của ba anh em nhà anh hùng dân tộc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, cho
nên sử gọi ba anh em là Nhà Tây Sơn.
Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn
họ Hồ, ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Tổ quán ở dưới chân
hòn Thái Sơn, một hòn núi nhỏ đứng bên cạnh hòn Đại Hải, một danh sơn tỉnh
Nghệ.
Họ Hồ vào lập nghiệp ở
Quy Nhơn[5], tức
Bình Định thời Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657), ứng với đời Lê Thần Tông
(1649-1662) ở Đường Ngoài, đời Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) ở Đường Trong. Bắt
đầu từ đời ông cố, đến Nguyễn Huệ là đời thứ bốn.
Ông cố tên là Hồ Phi
Long, vào ở giúp việc nông trang cho nhà họ Đinh thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn
(tức An Nhơn). Thấy họ Hồ là người trung hậu cần mẫn, họ Đinh cưới vợ cho (có
thuyết bảo là gả con gái) và nuôi cả vợ chồng, coi như người thân quyến.
Họ Hồ sinh được một
trai, đặt tên là Hồ Phi Tiễn. Lớn lên Hồ Phi Tiễn tỏ ra khôn ngoan lanh lợi,
song sức yếu không thể làm nông. Họ Đinh bèn giúp vốn để đi buôn.
Thời bấy giờ trầu nguồn
rất có giá, song người đồng ruộng ít người chịu khó vượt suối đèo để đi kiếm
lợi. Hồ lang bèn mang tiền lên ấp Tây Sơn buôn trầu. Đi buôn gặp người vừa ý
mới kết nghĩa vợ chồng, và để tiện việc làm ăn Hồ lang cất nhà nơi quê vợ.
Bà vợ tên là Nguyễn Thị
Đồng ở thôn Phú Lạc thuộc Tây Sơn Hạ. Bà Đồng là con duy nhất của một phú
thương (buôn trầu) đất Phú Lạc. Để con mình hưởng trọn gia tài và đời đời giữ
hương hỏa bên ngoại, bà Đồng thương lượng cùng chồng cho con mang họ Nguyễn.
Việc đổi họ đối với ông Hồ Phi Tiễn không có gì trở ngại vì chẳng những hợp
tình mà cũng hợp lý do việc tiền nhân là Hồ Quý Ly đã từng mang họ Lê là họ của
cha nuôi từ nhỏ cho đến khi lênngôi thay nhà Trần trị thiên hạ. Vì vậy con ông
Hồ Phi Tiễn mang họ Nguyễn từ lúc sơ sanh: Nguyễn Phi Phúc.
Lớn lên ông Phúc cũng
chuyên nghề buôn trầu và lập trường buôn trầu tại chợ Kiên Mỹ gần sông Côn[6].
Trầu trên nguồn chở xuống người ở miền dưới lên mua trầu đều đi đường thủy,
theo dòng sông Côn. Chợ Kiên Mỹ mỗi tháng có sáu phiên, phiên nào cũng đông
người mua bán. Đến khi trường trầu của ông Phúc mở, chợ càng ngày càng thịnh
vượng thêm. Trên bộ thì người chen chúc nhau, dưới sông thì thuyền lớp đậu lớp
xuống lên chật cả bến. Kiên Mỹ trở thành một thị trấn và ông Phúc trở thành một
phú thương có uy tín nhất trong vùng. Ông kết duyên cùng bà Mai Thị Hạnh[7]. Bà
hạnh là cao cao tổ cô của anh hùng Mai Xuân Thưởng. Vì vậy nên trong bản án của
Mai anh hùng do triều đình Huế buộc tội có câu: “Dương vị Hàm Nghi khởi nghĩa,
âm vị ngụy Nhạc phục thù”.
Ông Phúc sanh ba người
con trai:
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ
tức Nguyễn Bình, Nguyễn Lữ.
Ngoài đời cũng như
trong sách sử không nói rõ ba ông sinh năm nào.
Chỉ nghe các cụ phụ lão
truyền rằng ông Nhạc lớn hơn ông Huệ đến 10 tuổi, và ông Huệ hơn ông Lữ 1 tuổi.
Nếu dựa năm băng hà của
Vua Quang Trung mà tính thì chúng ta cũng có thể đoán được năm sinh của ba ông.
Vua Quang Trung Nguyễn
Huệ, theo các sử Việt, băng năm Nhâm Tý (1792) hưởng dương 40 tuổi. Như vậy ông
Huệ sanh năm Quý Dậu (1753) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14. Ông Nhạc lớn hơn 10
tuổi thì sanh năm 1743, tức năm Quý Hợi. Ông Lữ thua ông Huệ 1 tuổi, tức sanh
năm Giáp Tuất (1754).
Ba anh em lớn lên đều
thọ giáo ông Trương Văn Hiến tục gọi là Giáo Hiến ở An Thái (An Nhơn).
Trương Văn Hiến, người
Hoan châu (Hà Tĩnh) anh em thúc bá cùng Trương Văn Hạnh.
Trương Văn Hạnh là một
đại thần đời Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, Vũ Vương mất năm Ất Dậu (1765), thế tử
cũng đã mất từ lâu, con thế tử còn nhỏ, nên tờ di chiếu để lại lập con thứ nhì
của Vũ Vương, tức Nguyễn Phúc Luân (cha Nguyễn Phúc Ánh) lên nối ngôi, Quốc phó
Trương Phúc Loan muốn chuyên quyền, thông đồng với tên hoạn quan Chừ Đức và
chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống mạo tờ di chiếu giả, lập người con thứ 16 của Vũ
Vương là Nguyễn Phúc Thuần, lúc ấy mới 12 tuổi, lên làm Chúa. Trương Văn Hạnh
phản đối, bị Trương Phúc Loan giết chết. Trương Văn Hiến sợ vạ lây bèn trốn vào
An Thái mở trường dạy học.
Ông Trương Văn Hiến dạy
cả văn lẫn võ. Người đến xin học văn thì bắt buộc phải học thêm võ. Những người
đến xin học võ thì bắt buộc phải học thêm văn. Bởi có văn không võ thì thường
nhu nhược. Có võ không văn thì thường hay cường bạo. Văn võ phải nương nhau thì
đạo làm người mới giữ được vững.
Cũng như mọi người, ba
anh em họ Nguyễn Tây Sơn đều học cả văn lẫn võ, nhưng nặng bên võ hơn bên văn.
Ông Nhạc chuyên học kiếm, ông Huệ chuyên học đao, ông Lữ chỉ học quyền, và vì
sức yếu nên được truyền môn Miên quyền (quyền mềm dẻo như bông, đối lập với Ngạnh
quyền là quyền cứng mạnh), là môn sở trường của Trương Công.
Ông Phúc qua đời, ông
Nhạc nối nghiệp nhà. Ông Lữ xuất gia theo Minh giáo tục gọi là Đạo Ma Ní, dùng
phù phép để chữa bệnh, trừ tà như đạo phù thủy. Đạo này thịnh hành ở Tây Sơn
Thượng và các miền cao nguyên Trung phần. Chỉ có ông Huệ tiếp tục theo học thầy
giáo Hiến.
Để tiện việc buôn bán,
ông Nhạc dời nhà xuống Kiên Mỹ cạnh trường trầu. Nhà rộng để chứa bạn hàng.
Trước nhà lại mở sân rộng để luyện võ nghệ.
Nhà giàu, võ giỏi, ông
Nhạc lại nổi tiếng phong nhã hào hoa nên những tay “anh chị”, những kẻ khá giả
ở các vùng lân cận đều rất thích giao du. Uy thế của ông Nhạc ở địa phương còn
hơn ông Phúc gấp bội. Để tỏ lòng kính mến, người đương thời gọi ông Nhạc là ông
Hai Trầu. Ông Huệ là chú Ba Bình hay Ba Thơm. Ông Lữ là thầy Tư Lữ.
Vì ông Nhạc kết duyên
với bà Trần Thị Huệ nên để tránh trùng tên với chị dâu, gia đình mới gọi ông
Huệ là Bình. Do đó người địa phương mới gọi thân mật là chú Ba Bình. Tên Bình
là tên gọi ông Huệ lúc còn nhỏ. Còn tên Thơm là do nhân hoa huệ có hương thơm
nên gọi thay cho tên kiêng cữ.
Nhà ông Nhạc từ khi dời
xuống Kiên Mỹ, khách khứa mỗi ngày mỗi đông. Chẳng những khách người Việt mà cả
khách người Hoa.
Có một người Hoa tới ở
nhà ông Nhạc hàng tháng và ngày ngày cứ đi thơ thẩn nơi các vùng núi đồi Tây
Sơn Hạ. Thường được người Hoa đó lui tới nhất là hòn núi Thơm ở Kiên Thạnh và
dãy núi Ngang ở Trinh Tường. Ông Nhạc đoán biết là thầy địa đi tìm huyệt mả,
mới cho người tâm phúc theo rình. Một hôm thầy địa đến núi Ngang, lấy hai cây
trúc để nguyên cành lá đem cắm nơi triền phía đông, một cây bên nam một cây bên
bắc cách nhau chừng vài chục thước, rồi bỏ đi thẳng. Ông Nhạc ngày ngày đến xem
chừng. Mấy hôm sau, cây trúc phía bắc rụng hết lá và khô dần. Còn cây phía Nam,
đến ba tháng rồi mà vẫn tươi xanh như lúc mới trồng. Biết đó là ứng chứng cho
biết rằng long mạch nằm nơi cây trúc phía nam, ông Nhạc mừng lắm, bèn nhổ cây
sống trồng vào ngay chỗ cây chết, và cây chết trồng vào chỗ cây sống. Sau ba
tháng mười ngày kể từ ngày trồng hai cây trúc, thầy địa Tàu trở lại. Thấy hai
cây trúc đều khô héo hết, thầy địa cho là “giả cuộc”, bỏ đi không thèm trở lại
nữa. Ông Nhạc bèn bốc mộ ông thân đem táng nơi chân trúc phía nam.
Lại có thuyết: Đi lang
thang trên vùng núi đồi Tây Sơn hạ ít lâu, thầy địa Tàu bỏ đi mất. Một năm sau
mới trở lại. Lần này thầy mang một chiếc địa bàn và một chiếc tráp nhỏ. Ông
Nhạc đoán biết rằng thầy Tàu đã tìm được huyệt mả đại phát ở vùng Tây Sơn, và
chiếc tráp kia đựng hài cốt tiền nhân của thầy địa, bèn tìm cách đánh đổi. Ông
đóng một chiếc tráp in hệt chiếc tráp của thầy địa và hốt cốt ông thân sinh
đựng vào, rồi đợi... Coi được ngày lành, thầy địa mang địa bàn và tráp đi đến
nơi huyệt mả ở núi ngang. Thầy vừa đến chân núi thì một con cọp to lớn ở trong
bụi gầm một tiếng, nhảy ra vồ. Thầy địa hết hồn, quăng tráp và địa bàn mà chạy.
Hồi lâu thấy cọp không đuổi theo liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc tráp và địa
bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội đi thẳng đến nơi
long huyệt mà chỉ một mình thầy biết. Chôn cất xong, thầy hớn hở quay về Trung
Hoa, tuyệt nhiên không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn đựng di cốt ông Nguyễn Phi
Phúc chớ không phải di cốt của tổ tiên thầy và con cọp kia là con cọp giả do
ông Nhạc “đẻ” ra.
Từ ngày ông Nhạc được
huyệt mả, thì gia đình thường gặp nhiều việc may.
Một hôm ông Nhạc mua
được một thanh cổ kiếm dài và rất bén. Nhớ ơn thầy cũ, bèn xuống An Thái dâng
cho Trương công.
Trông thấy Nhạc, Trương
công giật mình. Vì trước kia, phong cách và tài năng của Nhạc đã làm cho Công
thầm khen là người có thể làm được việc lớn. Lúc này thần thái lại tươi sáng
hơn xưa thập phần. Nâng niu xem xét thanh kiếm, Công nói:
- Đây là một thanh bảo
kiếm, có đại phước mới vào tay. Tôi giữ hộ cho anh, ngày sau sẽ giao lại.
Đoạn bảo Nhạc:
- Lúc này là lúc kẻ anh
hùng có thể dựng nên nghiệp cả. Anh không nên để lỡ thời cơ.
Ý quật cường vốn đã
nhen nhúm trong người, nhưng Nhạc từ tốn thưa:
- Con tự xét không đủ
tài sức.
Công ôn tồn nói:
- Hán Cao Tổ, Lê Thái
Tổ đâu có phải từ trên trời sa xuống. Người có chí hễ nắm được thiên thời, địa
lợi, nhân hòa thì đại sự thành công không mấy khó khăn. Hiện giờ Trương Phúc
Loan chuyên quyền làm những việc gian ác, triều đình đảo điên, nhân tâm ly tán.
Nếu có người phất cờ khởi nghĩa thì bốn phương thiên hạ đều hưởng ứng ngay. Đất
Tây Sơn núi non hiểm trở có cái thế bách nhị[8]
tới lui không sức ngoài nào có thể ngăn cản. Anh chỉ có phải lo việc tài chánh
và quân sự nữa là có thể hưng binh.
Rồi gọi ông Huệ ra,
bảo:
- Con nay đã lớn khôn,
tài nghệ cũng đã vững. Con hãy về nhà giúp anh.
Công lại tặng cho hai
anh em hai bộ binh pháp, một của Tôn Ngô, một của Trần Hưng Đạo.
Hai anh em bái biệt sư
phụ về lo việc xây dựng sự nghiệp anh hùng.
Ông Huệ về nhà kết
duyên cùng bà Phạm Thị Liên người thôn Phú Phong huyện Tuy Viễn.
Ông Nhạc giao việc buôn
trầu cho vợ. Bà Nhạc họ Trần quê ở thôn Trường Định cách Kiên Mỹ hai thôn là
Thuận Nghĩa và Dõng Hòa, về phía đông. Bà là người hiền đức, làm việc siêng
năng, ăn tiêu kiệm ước, nhưng đối đãi với làng xóm, khách khứa và bạn hàng lại
rất rộng rãi dịu dàng. Vì vậy từ khi quyền điều khiển trường buôn trầu vào tay
bà, thì lợi hàng ngày có tăng chớ không có giảm. Ông Nhạc được rảnh tay để lo
việc nước việc dân[9].
Cho rằng mối lợi về
việc buôn trầu không thấm vào đâu đối với đại sự, một mặt ông lo tổ chức việc
đánh bạc, mặt khác tổ chức việc khẩn hoang. Và nghĩ rằng một cây làm chẳng nên
non, ông bèn sai ông Huệ đi liên lạc cùng những người có tiếng về văn về võ ở
khắp ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn.
Hợp tác cùng anh em ông
Nhạc sớm nhất là:
- Nguyễn Thung một phú
nông ở Thuận Nghĩa là một thôn trù phú ở sát Kiên Mỹ về phía đông.
- Võ Văn Dũng, Võ Đình
Tú ở thôn Phú Phong, ở phía nam ngạn sông Côn, nằm song song với Kiên Mỹ.
- Bùi Thị Xuân, người
thôn Xuân Hòa ở dưới Phú Phong, và chồng là Trần Quang Diệu, người Ân tín huyện
Hoài Ân.
Đó là những tay võ
giỏi. Còn bên văn thì có:
- Võ Xuân Hoài, ở Phú
Phong, đồng tông nhưng khác chi với ông Dũng, ông Tú.
- Trương Mỹ Ngọc ở An
Nhơn.
Mọi người đều được phân
công rành mạch. Người thì lo việc kinh tế tài chánh, người thì lo việc nhân sự,
người thì lo việc quân sự.
Sòng bạc mỗi ngày mỗi
mở rộng. Trong số con bạc có nhiều tay dũng sĩ có đại chí. Sòng bạc trở thành
nơi vừa làm lợi vừa chọn nhân tài.
Ông Nhạc cho khẩn hoang
nhiều diện tích rộng lớn tại An Khê, tại Thượng Giang (Tây Sơn Trung), Đồng
Hưu, Đồng Vụ (Phú Phong, Trinh Tường), Đồng Quang (Thuận Ninh) vân vân...Những
đồng bào mộ đi khai khẩn, phần đông trở thành nghĩa quân.
Nguyễn Nhạc tìm cách
đánh lạc hướng để bọn quan lại của chúa Nguyễn không dò được chí hướng của
mình.
Nguyên để thu thuế vùng
Tây Sơn, viên tuần phủ Quy Nhơn cho lập một đồn chính ở Trinh Tường và một đồn
phó ở Hữu Giang, do một biện lại và một phó biện lại chỉ huy. Từ ngày Nguyễn
Phúc Thuần lên ngôi chúa (1765), Trương Phúc Loan lộng hành, trong nước giặc
cướp nổi dậy khắp nơi, người ấp Tây Sơn không chịu nạp thuế. Biện lại, phó biện
lại luôn luôn bị cách chức vì bất lực. Không còn ai dám nhận chức biện lại. Ông
Nhạc tình nguyện đảm đương. Đồng bào trong vùng đã sẵn lòng mến mộ ông Nhạc,
nên chỉ những người nghèo khổ không đủ khả năng mới trốn thuế. Những phần thuế
bị thiếu, ông Nhạc xuất tiền nhà bù vào. Quan trên thấy ông Nhạc đắc lực bèn
đem lòng tín nhiệm. Nhân dân thấy ông Nhạc biết thương kẻ nghèo, đã phục càng
thêm phục. Trên được quan tin dưới được dân mến ông Nhạc được ung dung lo việc
của mình, không còn sợ ai dòm ngó.
Tài chánh mỗi ngày mỗi
thêm dồi dào, những tay văn hay, võ giỏi mỗi ngày tụ hội mỗi thêm đông, những
tráng niên, thanh niên có gan có sức, đến với các tráng sĩ để học võ và khai
khẩn đất hoang, mỗi ngày mỗi thêm tấp nập. Nguyễn Nhạc bèn xuống An Thái trình
bày mọi việc cho thầy rõ. Trương công rất mừng, lấy thanh kiếm cổ đem giao lại
cho ông Nhạc:
- Đã đến lúc dùng đến
rồi. Cần phải lo củng cố nhân tâm và biểu dương thanh thế.
Nguyễn Nhạc lĩnh ý ra về.
Một hôm, người thôn Phú
Lạc nghe trên hòn Trưng Sơn có tiếng chiêng trống và thấp thoáng có ánh lửa lập
lòe. Ai nấy đều thất kinh!
Hòn Trưng Sơn tuy ở gần
thôn xóm, nhưng không mấy ai dám vào, vì trên hòn có “mả mẹ chàng Lía” rất linh
thiêng và có nhiều cọp. Nghe tiếng chiêng tiếng trống và thấy ánh lửa, người
thì bảo rằng hồn chàng Lía về thăm mẹ, người thì cho là quỷ thần mở hội vui. Kẻ
bàn người tán, không mấy chốc đồn vang khắp vùng, khắp huyện, rồi khắp cả hai
huyện ngoài. Một đồn mười, mười đồn trăm. Các thầy tướng số bảo rắng đó là tú
khí của non sông xuất hiện, là điềm cho biết trước rằng trong vùng sẽ có chân
chúa ra cứu đời.
Tin đồn khắp nơi. Nhân
dân chịu đã không nổi ách chuyên chế của Vua chúa nhà Nguyễn, ai nấy đều hy
vọng sớm có cuộc đổi thay và mọi người đều hướng tâm về nẻo Trưng Sơn.
Cách đó không lâu nhà
Nguyễn Nhạc có kỵ. Khách khứa đông đúc. Cỗ bàn ăn xong thì trời đã khuya. Người
ở gần thì lục tục ra về, khách ở xa đều phải nghỉ lại. Bỗng cảnh tượng hôm
trước tái hiện nơi Trưng Sơn. Lần này tiếng chiêng tiếng trống lại rền trời, và
ánh lửa lại sáng ngời cả núi. Tuy đã trông thấy cảnh tượng đó lần thứ hai,
người trong vùng vẫn kinh sợ, và các tay võ sĩ tuy xem thường gươm giáo, nhưng
lắm người cảm thấy ớn lạnh châu thân.
Nguyễn Nhạc rủ mọi
người lên xem “quỷ thần làm trò gì”. Phần đông đều e ngại. Chỉ có chừng mười
người xin theo.
Nai nịt gọn gàng, chân
vũ hài, tay trường kiếm, trường côn, đoàn người mạnh dạn lên núi. Tiếng trống
chiêng dứt, ánh lửa tắt dần. Khi lên gần tới đỉnh, thì trong ánh sáng chập
chờn, thấy hiện ra một lão trượng mặc triều phục, râu tóc bạc phơ. Lão trượng
phất tay áo, ra dấu bảo đoàn người dừng lại. Ai nấy đều ớn lạnh, đứng lại như
cái máy. Lão trượng cất tiếng lanh lảnh hỏi:
- Trong anh em có ai là
Nguyễn Nhạc chăng. Nếu có thì hãy đến gần đây nghe lệnh. Còn các người khác thì
đứng yên.
Nguyễn Nhạc run sợ bước
đến quỳ trước mặt lão trượng. Lão trượng lấy trong tay áo rộng một tờ chiếu rồi
đọc lớn:
- Ngọc Hoàng sắc mạng
Nguyễn Nhạc vi Quốc Vương.
Đoạn trao tờ chiếu cho
Nguyễn Nhạc rồi quay bước vào trong bóng tối.
Từ ấy muôn người như
một, trừ cụ giáo Hiến và những người tâm huyết trong tổ chức, ai cũng tin rằng
trời đã cho Nguyễn Nhạc làm vua. Lòng mê tín không cho phép được nghi ngờ.
Đã có chiếu Trời rồi,
còn phải có ấn kiếm nữa mới lên ngôi được.
Một hôm Nguyễn Nhạc
cùng bộ hạ ở An Khê về, đến Hoành Sơn thì ngựa Nguyễn Nhạc lồng lên, rồi thẳng
cổ chạy nước đại. Nhưng không chạy tẽ ra hướng bắc để về Kiên Mỹ, lại chạy về
hướng đông nam. Đến chân núi phía trong Gò Sặt, cương ngựa bị đứt. Nguyễn Nhạc
té nhào xuống ngựa, trặc chân không đứng dậy được. Đám tùy tùng chạy đến xoa
bóp hồi lâu mới bớt. Khi đứng dậy để ngựa trở về thì Nguyễn Nhạc chợt thấy
chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người lên xem thì là một thanh
kiếm xưa lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng là của “Trời ban”[10].
Về nhà Nguyễn Nhạc nói
cùng hai em và các đồng chí:
- Ngọc Hoàng đã sắc
phong ta làm Quốc Vương, lẽ tất nhiên là phải ban ấn kiếm. Nay kiếm đã có rồi,
ta phải đi tìm ấn.
Đoạn tổ chức lễ cầu đảo
tại chân núi Hoành Sơn.
Cầu đảo ba ngày đêm.
Đêm làm lễ, ngày cho người đi tìm khắp vùng trên núi và dưới núi. Đã hai ngày
đêm rồi mà không thấy chi cả. Đêm thứ ba, lúc nửa đêm, chiêng trống hành lễ vừa
dứt, thì một vòi lửa như một làn pháo thăng thiên, bay từ hòn Một xẹt đến hòn
Giải thì rơi xuống. Tiếp đó một tiếng nổ nhỏ như tiếng pháo tre, rồi một tiếng
nổ lớn có phần dữ dội như tiếng sét làm chấn động cả vùng. Ai nấy đều thất
kinh. Sáng hôm sau, Nguyễn Nhạc dẫn người đến hòn Giải xem, thì thấy sườn núi
phía nam có một vùng lở và nám đen như bị sét đánh. Trèo lên xem thì thấy một
quả ấn vàng nằm trong kẻ đá nơi bị lở. Quả ấn vuông vức, mỗi cạnh dài độ ba
lóng tay, nơi mặt khắc bốn chữ triện “Sơn hà Xã tắc”[11].
Ai nấy tin rằng Nguyễn
Nhạc quả có chơn mạng.
Nguyễn Nhạc được các
người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng bào địa phương tôn làm Tây Sơn Vương.
Đó là vào năm Tân Mão,
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, Định Vương Nguyễn Phúc Thuần thứ 6, tức năm 1771.
Nguyễn Nhạc tổ chức lại
cơ sở:
- Quân sự giao cho
Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú.
- Kinh tế tài chánh
giao cho Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân và Nguyễn Lữ.
- Dân sự (hành chánh,
ngoại giao, tuyên truyền...) giao cho Võ Xuân Hoài và Trương Mỹ Ngọc.
Đất Tây Sơn trở thành
một nước nhỏ.
Mọi tổ chức được thực
hiện trong im lặng.
Lòng dân địa phương lại
hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc. Viên tri huyện Tuy Viễn không hay biết chi cả.
Nhưng vì biện lại đồn Tây Sơn (có tên là Vân Đồn) không chịu nạp thuế trong hai
năm liền, viên tri huyện sai Đốc Trung Đằng đem quân lên vấn tội. Quân của Đằng
bị quân Tây Sơn đánh bại[12].
Nhưng Nguyễn Nhạc và bộ
tham mưu nhận thấy địa thế Tây Sơn Hạ không được an toàn, bèn dời tổng hành
dinh và các cơ quan trọng yếu lên Tây Sơn Trung. Lấy dãy núi ở dưới đèo An Khê
làm mật khu. Nguyễn Nhạc cùng bộ tham mưu đóng ở hòn núi cao nhất nằm phía nam
chân đèo, Nguyễn Huệ cùng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đóng tại hòn núi phía
bắc. Do đó mà hai ngọn núi này mang tên là núi Ông Bình và núi Ông Nhạc.
Khu kinh tế tài chính
vẫn đóng ở Tây Sơn Hạ. Và những nơi đã được khai khẩn tiếp tục tăng gia sản
xuất. Trường trầu vẫn phát triển đều đặn. Các phú gia ở khắp Tuy Viễn nhiệt
liệt ủng hộ. Kho lẫm được canh coi chu đáo. Tiền, lúa nhiều nhưng không hề bị
thâm lạm.
Thanh thế của Tây Sơn
Vương mỗi ngày mỗi thêm vững vàng vang dội. Kẻ sĩ gần xa được mời tham gia liền
hưởng ứng. Bên văn có Triệu Đình Tiệp người An Nhơn. Cao Tắc Tựu người Phù Mỹ,
La Xuân Kiều người Phù Cát... bên võ thì có Nguyễn Văn Tuyết, người An Nhơn,
Nguyễn Văn lộc người làng Kỳ Sơn (Tuy Phước), Lý Văn Bưu người Phù Cát, Lê văn
hưng người Tuy Viễn... đều là những người có tài có chí.
Quân lính mộ thêm
nhiều. Những người trước kia lo việc sản xuất, nếu tình nguyện, đều được đưa
sang làm lính. Và tất cả quân sĩ, cứ sáu tháng ở trong quân đội, sáu tháng về
các nông trại để vừa nghỉ ngơi vừa cày cuốc. Trong đám quân sĩ có một người,
khi tập đã làm cho cấp chỉ huy thán phục là Lê Văn Hưng ở Kiên Dõng (Bình Khê).
Ông này côn quyền đã tinh luyện, sức mạnh có thể nâng đá nhẹ nhàng như xách gàu
nước, bưng nồi cơm. Nhập ngũ không bao lâu được làm đội trưởng.
Nghe tin Nguyễn Nhạc
“bị truy nã gắt gao vì thâm lạm công quỹ, chạy vào núi chiêu tập bọn vong mạng
định làm giặc”, viên tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho quân lính đi
lùng bắt. Nhưng nhiều lần quan quân đến Tây Sơn Hạ thấy nhân dân làm ăn yên ổn,
không thấy dấu vết của giặc đâu cả, Tuyên cho là tin đồn nhảm, nên thôi đem
quân càn quét vùng Tây Sơn.
Đỡ tốn công đối phó với
kẻ thù, Tây Sơn Vương lo phát triển lực lượng.
Nhận thấy người Thượng
bắn ná giỏi, lại có sức mạnh và có đức tính chịu đựng bền bỉ, Nguyễn Nhạc quyết
định dùng chính sách Thượng vận để lôi kéo các sắc tộc Xà Đàng (Sédang), Rađê
(Rhade), Giarai (Djarais) về với mình.
Vương đã được người
miền núi biết đến qua chuyện được kiếm thần.
Trong dân gian Thượng
cũng có chuyện được gươm thần như sau:
Truyền rằng xưa kia Vua
Chiêm bắt được một thanh gươm thần. Vua Chân Lạp bắt được vỏ gươm. Vua Chiêm
xây một tháp cao để tàng trữ gươm thần. Đêm đêm gươm tỏa sáng xa hàng vạn
trượng. Vua Chân Lạp phải đem vỏ gươm đến dâng và hàng năm triều cống. Ánh hào
quang của gươm tượng trưng cho thần lửa.
Thần lửa là vị thần mà
người Thượng miền núi từ Quảng Nghĩa vào Phú Yên tôn thờ do ảnh hưởng văn hóa
Chiêm Thành. Đạo Minh Giáo (đạo Ma Ní) mà ông Lữ theo cũng thờ thần lửa. Do đó,
ông Lữ có khả năng thuyết phục người Thượng dễ dàng.
Chính vì nắm được những
lợi thế đó mà Nguyễn Nhạc giao quyền điều khiển cho ông Huệ và ông Diệu, rút
ông Lữ về và thân hành cùng ông Lữ lên An Khê để vận động người Thượng.
Đã được kính một từ
trước, lại thêm có thầy hỏa giáo đi theo. Tây Sơn Vương đến đâu được người
Thượng hoan nghênh đến đó. Người Giarai (Djarais) coi Vương như thần và gọi là
Vua Trời[13].
Chỉ có người Xà Đàng (Sédang) mà chúa đoàn là Bok Kiơm không phục. Bok Kiơm
nói:
- Ông Nhạc không phải
người trời vì không có gì khác thường.
Để tỏ ra mình khác
thường, Nguyễn Nhạc dùng giỏ bội gánh nước đi ngang qua buôn Xà Đàng mỗi buổi
sáng sớm[14].
Bok Kiơm cho rằng có
phù phép, chớ không phải có tài trời sanh, bảo:
- Nếu ông bắt được con
ngựa thần thì tôi mới phục.
Nguyên trên núi Hiển
Hách, tục gọi là Hánh Hót ở vùng An Khê có một bầy ngựa rừng hễ thấy bóng người
là chạy tránh. Con ngựa cầm đầu sắc trắng tinh, lông gáy và lông đuôi dài và
óng như tơ, tiếng hí vang cả rừng và nghe xa hàng chín mười dặm thẳng. Người
Thượng gọi là Ngựa Thần.
Phải bắt cho được con
ngựa thần ấy mới thu phục được người Xà Đàng, mà có thu phục được người Xà Đàng
thì vùng Tây Nguyên mới thật là đất Tây Sơn, vì An Khê người Xà Đàng ở đông đảo
nhất. Nguyễn Nhạc để Nguyễn Lữ ở lại tuyên truyền, một mình về Kiên Mỹ cho
người đi mua một số ngựa cái lớn tốt, đem về dạy cho khôn, hễ nghe tiếng hú là
chạy đến. Bầy ngựa đã thành thục, Nguyễn Nhạc đem lên thả trên núi Hiển Hách
cho theo bầy ngựa rừng. Ít hôm ngựa rừng và ngựa đồng quen nhau. Hễ nghe tiếng hú
thì ngựa đồng chạy về, ngựa rừng cũng chạy theo, nhưng vừa thấy bóng người thì
quay đầu trở lại, nhưng chạy một đỗi xa xa thì quay đầu ngó lui. Nguyễn Nhạc
lấy cỏ bỏ cho ngựa ăn, rồi trở về. Ngựa rừng liền quay trở lại ăn cỏ cùng ngựa
đồng. Lần này ngựa rừng thấy bóng người không còn có vẻ hoảng sợ nữa, nhưng
không dám lại gần. Nguyễn Nhạc không bỏ đi, đứng vuốt ve bầy ngựa, hết con này
đến con khác. Mấy hôm sau bầy ngựa rừng nhận thấy người không có ý làm hại
giống nòi, bèn kéo đến ăn cỏ. Khi bầy ngựa rừng đã dạn, Nguyễn Nhạc đem cỏ bỏ
gần cho ăn, rồi từ từ tiến đến vuốt mõm vuốt lưng hết con này đến con khác. Con
ngựa bạch cầm đầu, ban sơ còn tỏ ý không thuận, nhưng dần dần, đứng yên cho
người vuốt ve.
Chinh phục được bầy
ngựa rừng rồi, Nguyễn Nhạc hẹn cùng Bok Kiơm nơi chốn và ngày giờ đến chứng
kiến. Để cho bầy ngựa khỏi sợ vì đông người. Nguyễn Nhạc bảo Bok Kiơm cùng đám
tùy tùng núp sau đó rồi cất tiếng hú. Bầy ngựa rừng theo bầy ngựa đồng chạy
đến. Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ăn và vuốt ve như thường lệ[15].
Người Xà Đàng tin
Nguyễn Nhạc là “người Trời” thật, hết lòng thần phục và bắt chước người Gia Rai
gọi là Vua Trời.
Tiếng Vua Trời trở
thành tiếng chung của người Thượng từ An Khê trở vô Phú Yên và trở ra Quảng
Nghĩa, dùng gọi Nguyễn Nhạc.
Ở trong vùng An Khê lại
có một sắc tộc thiểu số ở trong rừng sâu, ít giao thiệp với người ngoài. Đó là người Ba Na (Banard) ở trong rừng Mộ Điểu.
Rừng Mộ Điểu ở tại làng
Cổ Yêm cách Tú Thủy chừng mười, mười hai cây số.
Rừng rộng mênh mông.
Giữa rừng nổi lên một ngọn đồi trông giống một hòn cù lao ở giữa biển cả. Mỗi
buổi chiều, chim về nghỉ từng bầy, từng đám, tiếng kêu vang dậy cả rừng xanh.
Do đó rừng mang tên là Mộ Điểu.
Tuy ít giao thiệp với
bên ngoài, vị đầu mục Ba Na cũng đã có nghe tiếng Vua Trời. Vì vậy không mấy
chốc hai bên đã trở nên thân thiện. Để mối tình Kinh Thượng thêm nồng nàn khăng
khít, viên đầu mục gả con gái cho Vua Trời, bà vợ Thượng của Vương, tục gọi là
Cô Hầu.
Nhận thấy đất đai trong
rừng rất màu mỡ, Nguyễn Nhạc liền nghỉ đến việc khai khẩn. Vương mộ người
Thượng làm nhân công và rút một số người chỉ huy kinh tế ở Tây Sơn Hạ lên điều
khiển. Rừng Mộ Điểu nhờ sức lao động của người Thượng - nhờ tài hướng dẫn của
người Kinh, trở thành một cánh đồng phì nhiêu rộng hàng nghìn mẫu. Việc khai
khẩn, việc canh tác, việc thu hoạch do Cô Hầu đảm đương với một số người Kinh,
người Thượng tâm phúc trợ lực[16].
Nguyễn Nhạc dùng phần
lớn thì giờ để cùng Nguyễn Lữ đi chiêu dụ các sắc dân miền Kon Tum, Pleiku. Hai
anh em đi đến đâu thì người Thượng hoan nghênh đến đó. Cho nên tất cả người
Thượng vùng cao nguyên đều quy thuận Tây Sơn Vương.
Vương chọn trong những
người khẩn hoang một số tráng niên có sức, có gan và mộ thêm người trong các
vùng lân cận, tổ chức thành một đạo quân Thượng. Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết
và Lê Văn Hưng được đưa lên phụ trách việc huấn luyện và việc tổ chức. Dinh
trại đóng trên ngọn đồi. Những binh sĩ người Thượng đã được huấn luyện thuần
phục đều đưa xuống giao cho Nguyễn Huệ và Trần Quang Diệu rèn luyện thêm và
khép vào đội ngũ.
Nguyễn Nhạc khi ở Mộ
Điểu khi về trung nguyên, thái độ nghiêm nhưng hòa, xử sự có tình nhưng không
bỏ lý. Cho nên mọi người vừa kính sợ vừa yêu mến. Các anh hùng chí sĩ đến cùng
Nguyễn Nhạc đều coi nhau như tay chân và hết lòng giúp Tây Sơn Vương dựng
nghiệp cả.
Nhờ vậy mà chỉ trong
một thời gian ngắn, từ ngày rời chiến khu lên Tây Sơn Thượng (1771), nhà Tây
Sơn đã có cơ sở vững chắc.
Lúc bấy giờ vùng Tây
Sơn còn thuộc về khu vực hẻo lánh, nhân dân trong vùng lại một dạ trung thành
với nhà Tây Sơn, nên quan quân của chúa Nguyễn không hề hay biết. Tên biện lại
“thâm lạm tiền công quỹ” cũng không còn ai nhắc nhở đến. Tri huyện, tuần phủ
chỉ lo vơ vét cho đầy túi, không lo gì đến biến chuyển của thế cuộc.
BẢN
ĐỒ HUYỆN TUY VIỄN
[1] Trĩ: có nghĩa là núi. Đối trĩ: chỉ hai ngọn núi đối nhau.
[2] Hàn mặc: văn chương.
[4] Trong Nước non Bình Định đã nói kỹ càng về núi sông vùng
Tây Sơn. Ở đây chỉ rút những nét đại cương và chỉ đề cập đến những ngọn núi có
để dấu hoặc nhiều hoặc ít của cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn.
[5] Quy Nhơn là tên phủ thuộc dinh Quảng Nam, phủ Quy Nhơn chia
làm ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Sau này Quy Nhơn đổi ra Bình Định và
các huyện.
Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn bị cắt chia làm bảy huyện:
- Tuy Viễn chia ba: Bình Khê, An Nhơn, Tuy Phước.
- Phù Ly chia hai: Phù Cát và Phù Mỹ.
- Bồng Sơn chia hai: Hoài Nhơn, Hoài Ân.
[6] Kiên Mỹ ở dưới Phú Lạc, Phú Lạc không có chợ. Bến sông đò
đậu để buôn trầu gọi là bến Trường Trầu, gọi tắt là bến Trầu, hiện vẫn còn.
[7] Theo “Tây Sơn nhân vật chí” của Đinh Sĩ An, thời Cảnh
Thịnh.
[8] Bách nhị: lấy từ chữ “bách nhị sơn hà” chuyện hai người dựa
vào thế núi hiểm trở chống lại một trăm người mà không bị đánh bại.
[9] Xem tiểu sử bà Nhạc ở đoạn sau (đoạn nói về ông Nguyễn Văn
Tuyết).
[10] Núi này mang tên Kiếm Sơn là do tích “được kiếm” của Nguyễn
Nhạc. Sử sách chép rằng ông Nhạc lượm được gươm tại núi An Dương. Sự thật đó là
thanh cổ kiếm cụ giáo Hiến giữ giùm cho ông Nhạc.
[11] Hòn Giải có tên là hòn Trống (cổ sơn) lại thêm tên hòn Ấn,
(Ấn Sơn).
[12] Sử nhà Nguyễn chép rằng Nguyễn Nhạc thua bạc hết tiền thuế, bị truy nã, do đó chạy vào rừng làm giặc.
[13] Người Gia Rai coi bộ lạc mình là con cháu chính thống của
thần Lửa cho nên đã mang tên của thần Lửa là Giarai (Djarais).
[14] Không có gì lạ: Lấy giấy trắng tốt nhúng dầu trong phơi khô
rồi phất trong lòng giỏ bội. (Giấy nhúng dầu xong để khô trông giống tờ
ny-lông). Đổ nước vào giỏ, nước không chảy, giấy không bị ướt.
[15] Con bạch mã sau này trở thành một chiến mã. Khi
ông Nhạc qua đời, ngựa trở về núi.
[16] Rừng Mộ Điểu sau trở thành cánh đồng gọi là cánh
đồng Cô Hầu và ngọn núi ở giữa đồng bào đặt tên là núi Hoàng Đế.