CÀNH HOA ĐỖ QUYÊN
Khách cùng Lão đương dạo Vườn thì nghe cuốc kêu nơi bờ
lách. Khách cao hứng ngâm bài ĐÊM NGHE CUỐC KÊU của Tam Nguyên Yên Đỗ:
Khắc khoải
sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục
Đế thác bao giờ?
Năm canh máu
chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn
tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc
xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ
nước phải nằm mơ
Thâu đêm ròng
rã kêu ai đó
Giục khách
giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Ngâm rồi hỏi:
-
Lão Vườn có công
nhận là một danh hoa chăng?
Vốn theo thuyết “văn hoành công khí”, lão không ngần
ngại, đáp:
-
Tam Nguyên Yên Đỗ
là 1 tay thi bá. Cụ có nhiều giai tác lưu thế. Song bài này chưa chắc là của cụ
và theo ý lão, chưa có thể liệt vào hàng danh ba. Lão chỉ thích có cặp trạng,
nhưng không phải cặp trạng ông bạn vừa đọc mà cặp trạng lão được nghe truyền:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Muôn dặm
hồn tan bóng nguyệt mờ.
Khách trợn mắt:
-
Sách nào cũng
chép là “sáu khắc hồn tan” kia mà.
Lão cười:
-
Những sách ấy có
phải do Nguyễn Khuyến in ra chăng? và người in những sách ấy có in theo bản
thảo do tự tay tác giả viết ra chăng?
-
Chẳng lẽ tất cả
các sách đều sai?
-
Cổ nhân dạy rằng
“tận tin thơ bất như vô thơ”,
-
Vậy thì tin vào
đâu?
-
Tin vào lẽ phải
sau khi đã suy xét kỹ càng. Chúng ta chớ quên rằng ngày xưa các cụ làm thơ Quốc
âm chỉ để tiêu khiển, chớ ít người coi là sự nghiệp văn chương, nên làm rồi đọc
nghe chơi chớ không mấy khi chép lại. Những bài đặc sắc được truyền từ miệng
người nầy sang miệng người nọ, rồi từ đời nầy sang đời nọ, không khác gì những
câu ca dao… Cũng có người cẩn thận ghi chép vào giấy. Nhưng ghi đi chép lại
nhiều lần thành "tam sao thất bổn”. Đến khi chữ quốc ngữ thịnh hành, những
người yêu văn thơ xưa ra công sưu tầm đăng lên sách báo. Song nghe sao chép vậy
thấy sao chép vậy chớ không biện biệt thị phi, cho nên có lắm câu sai hẳn nguyên
tác, sai có khi đến vô nghĩa. Bởi vậy nếu tin vào sách, nhất là sách do những
người in ra chỉ nhằm mục đích tài chánh chớ không phải để bảo tồn di sản tinh
thần của ông cha, thì không nên tin như Thuý Kiều đã tin Hồ Tôn Hiến.
Khách tỏ vẻ chưa hoàn toàn đồng ý. Lão tiếp:
-
Chẳng những thơ
văn của người xưa mới bị cảnh tam sao thất bổn. Những nhà văn thơ hiện đại cũng
thường bị “người ngoài” làm sai văn thơ mình, hoặc vô tình hoặc hữu ý. Lão xin
lấy lão làm điển hình, và đơn cử ra 1 trường hợp:
Bài ĐÊM TÌNH trong MÙA CỔ ĐIỂN in năm 1941 cũng như
trong bản in lại năm 1960, câu kết là:
Phòng hương
thương kẻ ngồi nương triện
Tình gởi mây
xa lệ ngập ngừng.
Khách hỏi:
-
Sao lão không cải
chính?
-
Sách ra đã ba năm
nay, mà anh Trần Thúc Lâm mới cho biết đây, thì cải chính sao kịp nữa. Huống hồ
chữ sai ấy không có hại đến ý nghĩa câu thơ bao nhiêu.
Đó là thơ mình in vào sách người, có chỗ sai là việc
thường. Đến thơ mình in nơi sách mình mà vẫn có chỗ sai mới là việc “bất
thường”. Lão cũng xin lấy lão làm chứng, mặc dù biết rằng “cái ta là cái đáng
ghét”:
Trong MÙA CỔ ĐIỂN do Tân Việt xuất bản năm 1960, lão
có thêm một số bài làm thời Kháng Chiến chống Pháp (1945-1954). Trong đó có bài
BỊ AN TRÍ câu phá vốn là:
Vô
quá mà vô cải hoá đường.
Thợ
in lại sắp lộn là:
Vô
hoá mà vô cải hoá đường.
Khách hỏi:
-
Lão không xem morasse sao?
-
Lão đâu có ở Sài Gòn mà xem. Giao cho nhà xuất bản lo lấy. Đến
khi in xong, lão cũng có xem qua, song không thấy. Bởi lắm khi sách để trước
mặt mà mắt lại đọc bản thảo ở trong lòng! Vừa rồi ông bạn Phan Ngọc Châu ở
Saigon viết thư hỏi lai lịch chữ “Vô hoá" Rằng: “Có phải từ ngữ tôn giáo
chăng? Nhưng nhất định là không phải “nan hoá” (phụ nhân nan hoá). Có bạn đã
đoán là “vô quá”, với ý nghĩa là không có lỗi lầm mà bị đưa đi cải hoá. Đó là
phỏng đoán… chớ biết đâu tác giả dùng chữ: “vô hoá” là có xuất xứ hẳn hoi, để
nói mình là hạng người mà không có thế lực nào có thể biến hoá tư tưởng được?”
Lão bật cười: “Vì một chữ in sai
mà làm phiền người đọc đã dữ!,”
Lão phải đem “kinh nghiệm bản
thân” ra để cho quí khách thấy rõ rằng không nên tận tín thơ.
Khách hỏi vặn:
-
Như vậy câu “muôn
dặm hồn tan bóng nguyệt mờ” của lão vườn đưa ra có đúng với nguyên tác chăng?
-
Lão đâu dám quả
quyết vì lão đầu thai sau cụ Yên Đỗ đến nửa thế kỷ và chưa hề thấy bút tích của
cụ. Nhưng nếu đem so sánh câu “muôn dặm..” với câu “sáu khắc..” thì những người
có trí phán đoán chắc không ai không công nhận rằng câu “muôn dặm” hơn hẳn câu
“sáu khắc”.
Trước hết chúng ta xét về chữ “sáu khắc..”. “Năm
canh..” mà đối “sáu khắc” thì quá tầm thường mà cụ Yến Đỗ không phải là tay tầm
thường.
Khách phản đối:
-
Năm canh là đêm,
sáu khắc là ngày. Đối chỉnh cả chữ lẫn ý. Như thế là tuyệt chớ sao gọi là tầm thường?
Lão cười:
-
Ông bạn chắc nhớ
chuyện “bà quán ra đối cho thầy tú”?
-
Không nhớ. Xin
cho nghe.
-
Một thầy tú ngủ
trọ nơi một quán cơm, không có tiền trả cho bà quán. Bà quán đề nghị: “Tôi ra
cho thầy một câu đối, nếu đối được thì xí xoá tiền trọ tiền cơm”. Thầy tú chấp
thuận. Bà quán ra đối:
Sớm mai gà
gáy ó o
Thầy tú thức
dậy mà lo tiền hàng.
Thầy tú nói: “Để bà dễ nhớ, tôi đối từng chữ một, chịu
không?” Bà quán chịu.
Thầy tú: “Sớm mai”, tôi đối với “chiều tối”, “gà gáy ó
o” , tôi đối với “heo kêu ụt ịt”, được không?
Bà quán: Được.
Thầy tú: “Thầy tú”, tôi đối với “bà quán”, được không?
Bà quán: Hay!
Thầy tú: “Thức dậy”, tôi đối với “nằm xuống”.
Không đợi thầy tú hỏi “được không” bà quán gật đầu tán
thưởng. Thầy tú cao hứng tiếp:
-
“Mà lo” đối “Mà lắng”. “Tiền” đối “gạo”, “Hàng”, đối
“Lụa”. Chỉnh không?
Bà quán hoan hỷ đáp:
-
Tuyệt.
Thầy tú xách dù đi nhanh. Ngồi một mình bà quán lẩm
bẩm đọc lại câu đối và gật gù khen:
-
“Sớm mai gà gáy ó
o” mà đối “ Chiều tối heo kêu ụt ịt” thì
giỏi thật. Đáng đậu tú tài. Còn “Thầy tú thức dậy” mà đối “bà quán nằm xuống” thì
thật hợp cảnh hợp tình. Ý vị!
Đến đó bà quán trầm ngâm giây lát rồi vụt thét:
-
“Bà nằm xuống”
tưởng nằm xuống làm giống gì, chớ nằm xuống mà.. mà… mà “lắng gạo lụa” là cái
quái gì? Hỡi thầy tú?
Khách cười nhưng lại mắng:
-
Lão vườn ba hoa quá!
Lão đáp:
-
Gỏi gà phải trộn
rau răm, xáo thỏ phải thêm đậu phụng, mới thích khẩu chứ. Huống nữa lão phải
dông dài để ông bạn thấy rằng cũng vì cứ lo việc đối chọi mà có lắm người quên
nghĩ đến ý nghĩa câu thơ, thường tạo ra những bài thơ không hồn, khiến các nhà
Thơ Mới có cớ để mạt sát thơ Đường Luật. Lưu Trọng Lư bảo rằng làng thơ cũ chỉ
chú trọng đến việc đối chọi “con chó đi ra, con gà đi lại”.
-
Họ Lưu vơ đũa cả
nắm!
-
Cũng bởi mình có
đũa, nên họ mới vơ được. Chớ nếu không vết thì tha hồ cho người thổi lông.
Lão nói thêm:
-
Cổ nhân đặt ra
phép đối trượng trong luật thơ là cốt để cho câu thơ được thăng bằng, điệu thơ
khỏi bị lệch lạc. Cổ nhân nặng phần ý hơn phần chữ. Cho nên khi ý cân xứng mà
chữ đối không chỉnh cũng không sao. Ví dụ câu sau đây của Tam Nguyên Yên Đỗ:
Bạn già lớp trước
nay còn mấy.
Chuyện cũ mười
phần chín chẳng như.
Sợ lão dông dài
thêm, khách chận lại:
-
Hãy trở lại cùng
“năm canh” và “sáu khắc”.
-
Lão nói: “sáu
khắc” đối với “năm canh” là tầm thường, vì ai đối chẳng được, hà tất phải cụ
Yên Đỗ. Thêm “thời gian” đối với “thời gian” còn lý thú gì nữa? Huống hồ ông
bạn nghĩ xem cụ Yêu Đỗ nghe cuốc kêu lúc nào?
-
Nghe lúc ban đêm,
vì câu bảy nói “Thâu đêm ròng rã kêu ai đó”.
-
Như vậy sao dùng
chữ “sáu khắc” là ban ngày?
-
Có người giải
rằng “con cuốc kêu ra máu suốt đêm (năm canh) đến sáng ngày (sáu khắc) máu khô
lăn ra chết (hồn tan)”.
-
Đó là cưỡng giải.
Đương còn đêm mà sao đã biết đến việc ban ngày chưa tới?
-
Theo tôi thì tác
giả nhân cảm xúc vì tiếng cuốc lúc ban đêm mà liên tưởng đến tiếng cuốc lúc ban
ngày.
-
Như thế thì mạch
thơ bị đứt, trạng luận không chuyển tiếp nhau. Để ông bạn dễ lãnh hội, lão xin
hỏi: Ba chữ “Bóng nguyệt mờ”, tác giả có thác ý hay chỉ dùng để tả cảnh mà
thôi?
Khách ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
-
Nhất định tác giả
có thác ý.
-
Vậy chúng ta xét
thử: Tại sao bóng nguyệt mờ? Có phải vì tiếng cuốc kêu chăng?
-
Phải.
-
Trong đêm khuya,
vừa nghe tiếng cuốc kêu vừa thấy bóng trăng mờ, mà bảo rằng trăng mờ do cuốc
kêu, thì không ai bắt bẻ được. Chớ ban ngày không có tiếng cuốc kêu, bóng trăng
cũng vẫn mờ kia mà. Nếu nói "ban ngày tiếng cuốc kêu, hoặc hồn cuốc tan ra
làm mờ bóng trăng” thì các em bé nghe cũng phải cười vậy.
Đó là nói lý.
Còn về ý, theo
tôi thì tác giả dùng “bóng nguyệt mờ” để diễn tả ảnh hưởng của tiếng cuốc đối
với vũ trụ mà mặt trăng là phần tử nổi bật lúc ban đêm và ở xa chúng ta muôn
dặm. Cho nên chữ “muôn dặm” để vào câu thơ thật là đắc địa:
“Muôn dặm hồn
tan bóng nguyệt mờ”.
Câu “Năm canh máu chảy…” nói về thời gian.
Câu “Muôn dặm hồn tan…” nói về không gian
Chữ “năm canh” ngậm ý liên tục, không ngừng của tiếng
cuốc.
Chữ “muôn dặm” ngậm ý thần giao cách cảm của những tâm
hồn giống nhau.
Năm canh máu
chảy đêm hè vắng
Muôn dặm hồn
tan bóng nguyệt mờ
Lời đã chỉnh ý lại hàm súc:
Cuốc kêu ròng rã suốt năm canh, kêu không ngừng, kêu
không mỏi, kêu đến hầu tuôn ra huyết, hồn tan khắp không gian, đến nỗi vầng
trăng ở tận muôn dặm xa cũng phải mờ vì cảm động! Thế mà bốn bề quạnh hiu không
có một tiếng lòng đáp lại, dường như không ai thấu nỗi đau khổ của người mất
nước mà con cuốc là hiện thân, là tượng trưng! Nhưng không lẽ, vì trăng ở tự
muôn xa và không liên hệ chi đến sự tồn vong của đất nước này, mà còn thông cảm
được nỗi đau thương trong tiếng cuốc, huống hồ những người chung cảnh chung
tình. Biết đâu trong cảnh vắng vẻ của đêm hè lại không có nhiều người xót xa
cho cảnh nước mất, khi nghe cuốc kêu như mình, nhưng vì biết rằng bất lực như
mình, nên đành lặng tiếng im hơi.
Khách nói:
-
Giảng như thế e
đi ra ngoài câu thơ quá xa chăng?
Lão đáp:
-
Những thơ hay đều
có ý tại ngôn ngoại, cũng như đàn hay có ngoại huyền chi thanh, món ăn ngon có
ngoại vị chi vị. Có nhận thức được những ý ở ngoài lời nói, tiếng đàn ở ngoài
giây tơ, vị ngon ở ngoài chất vị, thì mới hưởng được chân thú chân vị luôn luôn
ẩn tàng.
-
Còn những câu
kia?
-
Không xứng với
hai câu này. Kể cũng đáng tiếc. Song một bài thơ, thà được một câu tuyệt tác
còn hơn câu nào cũng trung bình.
Khách
mỉm cười từ giã.
Ngoài
bờ lách, tiếng cuốc vẫn đưa sầu lửng lơ.