Trong vườn hoa thơ Bài 01-Chuyện hoa trong ngày xuân


CHUYỆN HOA TRONG NGÀY XUÂN

Bốn chàng Thơ họ PHAN, họ LÂM, họ LƯU, họ VŨ cùng một đoàn thiếu nữ ngồi ngắm xuân trong vườn Bách Hoa.
Lâm lang nói:
-      Bao nhiêu vẻ đẹp của xuân đều dồn cho hoa cả.
Một thiếu nữ tiếp:
-      Đúng thế. Nhưng vườn có trăm hoa, hoa nào đẹp nhất?
Phan lang đáp:
-      Hoa huệ, hoa lan, hoa lài, hoa lý.
Anh yêu hoa nào hoa ấy là xinh.
Các cô đồng thanh hỏi:
-      Vậy các anh yêu hoa nào?
Lưu lang bẻ:
-      Mỗi hoa một vẻ. Mỗi người thích mỗi cách, ưa mỗi thứ. Yêu chung thế nào được mà hỏi chung một tiếng “các anh”?
-      Thôi đừng nhiều chuyện. Riêng anh, anh yêu hoa nào?
-      Hoa đào.
-      Hẳn vì đã cùng họ Nguyễn vào Thiên Thai?
-      Không phải vì vào Thiên Thai, mà chính vì ra Hà Nội.
-      Vì ra Hà Nội?
-      Vâng, ra Hà Nội năm 1941. Lúc ấy đã gần cuối năm. Một ông bạn rủ ra ngoại ô mua hoa đào về chơi Tết. Trời mưa phùn. Chúng tôi đến một vườn hoa trồng toàn đào. Một thiếu nữ ra tiếp. Thiếu nữ mặc áo nâu tứ thân, trùm chiếc khăn mỏ quạ, đôi má phúng phính và trắng hồng, đôi hàng lông mi dài và đen nhánh. Bạn tôi cùng thiếu nữ đi lựa nhánh đào. Tôi đứng ngắm cảnh vườn hoa.
Vườn rộng độ vài sào. Hoa đào trổ đầy nhánh, búp có, nở có. Nhiều nơi, hoa rụng hồng cả mặt đất. Xa xa bạn tôi và thiếu nữ thấp thóang dưới bóng hoa đào, mưa vây một màn sa trắng nhẹ.
Mua hoa xong, chúng tôi ra về, lòng tôi cảm thấy bâng khuâng… Về nhà, tôi cắm hoa vào bình để nơi phòng khách. Khách đến xem hoa thì tôi tránh. Vắng khách thì tôi ngồi ngắm hoa một mình. Mỗi lần ngồi ngắm hoa thì cảnh vườn hoa dưới mưa phùn hiện ra trước mắt. Ban đầu hình dáng bạn tôi hiện rõ từng nét. Nhưng mỗi lúc mỗi mờ dần, chỉ còn ảnh người thiếu nữ với đôi má phúng phính hồng và đôi hàng lông mi đen nhánh. Sau cùng ảnh thiếu nữ cũng mờ hẳn chỉ còn đôi má và đôi mi ẩn hiện trong sắc hoa đào sau màn mưa sương trắng nhẹ.
Từ ấy tôi đâm ra thích ngắm hoa đào và yêu hoa đào. Về Nha Trang, cho đến khi chiến tranh bùng nổ, năm nào tôi cũng tìm mua cho được hoa đào để thưởng xuân.
Một thiếu nữ cười khúc khích:
-      Thế là vì thiếu nữ mà anh yêu hoa đào chớ đâu phải vì hoa.
Vũ lang cãi:
-      Thơ là giai nhân, mà giai nhân là hoa. Thì nhà thơ vì hoa mà yêu hoa hay vì giai nhân mà yêu hoa, đều cũng thế.
-      Thôi đừng ba hoa. Bây giờ, trừ anh Lưu ra, còn 3 anh, mỗi anh phải kể cho chúng em nghe một câu chuyện về hoa mà trong chuyện phải có cả thơ và giai nhân. Nhưng cấm kể chuyện mình, vì “ cái ta là cái đáng ghét”, trừ khi người hỏi đến như trường hợp anh Lưu.

Vũ lang giành kể trước:
“ THÔI HỘ là một thi nhân đời Đường. Nhân tiết thanh minh, một mình ra ngoài Đô thành thưởng xuân. Trời trưa khát nước, ghé vào gõ cửa một ngôi nhà bên đường. Ngôi nhà cao sang nhưng yên tịnh, trước cửa có khóm đào nở đầy hoa. Một giai nhân bưng nước ra mời khách, rồi đứng tựa gốc hoa đào nhìn vẩn vơ. Thôi uống xong từ giã.
Qua năm sau, cũng ngày ấy, Thôi đến chỗ cũ thì khóm hoa đào vẫn nở, nhưng bóng người vắng cả trước sau. Buồn bã đề vào vách bốn câu thơ, rồi đi.

Thơ rằng:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào ba tương ảnh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào ba y cựu tiếu đông phong.
Nghĩa là:
Cửa này năm ngoái hôm nay
Hoa đào mặt ngọc hồng lây ánh hồng.
Mặt ngọc đâu? Vắng tăm mòng!
Hoa đào còn với gió đông riêng cười.

Giai nhân về, xem thấy thơ, lòng sanh tưởng nhớ. Rồi trông mãi không thấy Thôi, tương tư mà chết. Thôi hay tin đến, ôm giai nhân khóc thảm thiết, nước mắt thấm tận lớp áo trong. Hơn nửa ngày giai nhân sống lại. Cha mẹ mừng rỡ, bèn đem gả cho Thôi”.
Các thiếu nữ vỗ tay khen:
-      Tình nhỉ! Cô ả chắc đẹp lắm?
Lâm lang nói:
-      Có đẹp cũng như các chị là cùng.
-      Đừng tán nhảm. Hãy lo trả nợ hoa xong.
-      Ừ, hãy nghe đây. Sách Dã sử, Giá Di chép rằng:
“Triệu Sư Hùng đời qua Quảng Châu, đến chân núi La Phù thì ngày đông vừa lặn bóng ác. Nhìn vào rừng tùng, thấy một nhà trạm và một quán rượu cao vắng. Trong trạm có một giai nhân trang sức nhã đạm ma nhan sắc thanh tú.
Sư Hùng lại gần. Giai nhân ra đón vào trạm, cùng nhau chuyện trò rất tương đắc.
Mặt trăng dần dần lên. Tuyết đêm dần dần xuống. Quanh chỗ ngồi lươn vươn một mùi hương thanh thanh.
Khí trời mỗi lúc mỗi thêm lạnh. Hai người đưa nhau sang quán rượu cùng uống. Một đồng tử mặc áo xanh bước ra, vừa ca vừa múa, thánh thót nhịp nhàng. Sư Hùng cao hứng uống quên cả say. Đoạn gục trên bàn ngủ thiếp…
Một trận gió lạnh thổi đến. Sư Hùng giật mình thức dậy, thì bóng trăng đã lên cao, ánh tutết lấp lánh sáng. Nhìn quanh không thấy giai nhân, không thấy trạm quán, và mình đang nằm dưới gốc mai thân to hoa sum, trên cành một con chim xanh vừa chuyền vừa hót.
Rồi mà trăng lặn tuyết tan, Sư Hùng ra về, bồi hồi ảo não”.
Phan lang khen:
-      Tuyệt! Giai nhân của Thôi Hộ là nhan sắc bằng thịt bằng xương. Còn giai nhân của Triệu Sư Hùng là hương là sắc. Cuộc tình duyên của họ Thôi là cuộc tình duyên trăm năm mà thiên thu. Cuộc tình duyên của họ Triệu là cuộc tình duyên thiên thu trong chốc lát. Cảnh tình tuy có khác, nhưng cả hai đều thần tiên.
Một thiếu nữ nói:
-      Nhưng câu chuyện của Lâm lang thiếu yếu tố Thơ.
Phan lang đáp:
-      Chất thơ đã đầy nhẫy trong câu chuyện thì cần gì còn phải có lời thơ. Thơ mà đến mức vô ngôn mới thật là tuyệt diệu. Nhưng chỉ tiếc câu chuyện của Lâm lang cũng như của Vũ lang, thời gian đã xa xôi, không gian lại xa cách. Tôi sẽ kể cho anh chị em nghe một câu chuyện vừa xảy ra trên mươi năm nay, và xảy ra ngay trên đất nước Việt Nam yêu quí, ở một nơi đầy hoa, thơ và giai nhân: Huế. Nhân vật chính trong câu chuyện lại là một nhà chí sỹ đại danh của dân tộc: Phan Sào Nam tiên sinh.
Phan Sào Nam bị Pháp bắt đem về an trí tại  Huế. Cụ có vườn có nhà ở gần Bến Ngự, nhưng ngày ngày lại ở trong một chiếc thuyền con thả lơ lửng trên dòng sông Hương.
Năm 1953 hay 36, nhân ngày Tết, ông Bùi Huy Tín đem biếu cụ một chậu hoa Thủy Tiên. Cụ liền chèo thuyền ra giữa dòng sông mà thưởng xuân. Nhìn hoa bồi hồi cảm khái, cụ bèn soạn một khúc ca rằng:
Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Tiên trên on mà hiếm có đã đành,
Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm.
Muôn tia nghìn hồng thây tục phẩm,
Năm hồ bốn biển nhớ tiền sinh.
Nét điểm trang con Tạo khéo đa tình,
Nhụy kìa vàng hoa kìa bạc lá kìa xanh,
Trên mặt nước long lanh trời với bóng.
Đố ai biết thần tiên biệt chủng.
Mái Hương giang  mà tiên động tự nhiên thành.
Vô tình mới thật hữu tình,
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên.
Cách Bồng Lai Phương Trượng bấy nhiêu tiên,
Mừng tái kiến lại não nùng duyên nợ cũ.
Trên cung Nguyệt Nghê thường khúc múa,
Giữa nhân gian hồ dễ mấy hồi nghe.
Tả tình gọi chút lời quê.

Rồi đối hoa cao ngâm, trên mặt nước long lanh trời với bóng.
Bài Thủy Tiên sau có đăng trên báo Tràng An do ông Bùi Huy Tín chủ nhiệm. Song vì báo Tràng An không phải sống do độc giả, nên bài Thủy Tiên một áng văn chương tuyệt diệu bị rơi vào khoảng hư vô!
Một thiếu nữ nói:
-      Bài thơ tuyệt hay. Câu chuyện có ý nghĩa. Nhưng vẫn chưa hoàn hảo, vì còn thiếu giai nhân.
Phan lang sắp trả lời thì Lưu lang đã nói trước:
-      Không thiếu. Chỉ vì giai nhân ẩn bóng trong hoa, nên riêng mắt thi nhân mới trông thấy.
-      Vô lý.
-      Nếu không có giai nhân sao lại có câu:
Vô tình mới thật hữu tình,
Ơn người giới thiệu cho mình gặp tiên.
-      Nhưng tiên gặp đó biết là tiên ông hay tiên cô?
Các chị quên rồi sao? Hạ tiên Cô vốn ở Phương Trượng. Còn Dương Thái Chân sau khi vĩnh biệt Đường Minh Hoàng nơi Mã Ngôi thì thành tiên về Bồng Lai vui ngày tháng:
Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn,
Cố cung tưởng lại muôn vàn ái ân
          (Tản Đà)
Tiên đã từ Bồng Lai Phương Trượng xuống, mà còn nghi ngờ: Tiên ông? Tiên cô?!
Lâm lang nói:
-      Quả giai nhân không thiếu. Và giai nhân của Sào Nam là giai nhân của Thơ. Giai nhân của Sư Hùng là giai nhân của Mộng. Còn giai nhân của Thôi Hộ cũng như của Lưu lang là giai nhân của Thực tế, của Thế gian.
Vũ lang vỗ đùi:
-      Hay quá! Chuyện là chuyện Hoa nên trong chuyện nào Hoa cũng có. Còn giai nhân qua bốn chuyện, thì đi từ chỗ Có đến chỗ KHÔNG CÓ, nghĩa là từ Sắc đến Không. Giai nhân bên hoa đào là Sắc. Giai nhân trong Thủy tiên là Không. Giữa Sắc và Không là giai nhân của Hoa Mai vậy.
Phan lang cười tiếp:
-      Còn Sắc mà không, Không mà Sắc, Mộng trong Thực, Thực trong Mộng, đó là Thơ.
Một thiếu nữ nói:
-      Là Sắc là Không, giai nhân cũng nhờ Hoa mà nên chuyện. Dù Mộng dù Thực, chuyện cũng nhờ Văn chương mà nghìn thu. Không văn chương, có hoa đó, có giai nhân đó, không đó thế mà có….
Lưu lang đỡ lời:
-      Nhưng nếu không Dương Quí Phi thì hoa mẫu đơn không cao phẩm giá. Và nếu có Dương Quí Phi mà không mẫu đơn thì không có khúc Thanh Bình của Lý trích tiên. Thế là hoa nhờ giai nhân mà đẹp, Thơ nhờ hoa và giai nhân mà danh thơm. Đó là tương ỷ tương y. Cho nên có câu rằng:
Đào yêu với khách yêu đào,
Nghìn thu hương phấn ngạt ngào văn chương.

Nha Trang, đầu Xuân năm Mậu Tuất. (1958).