HOA THƠ XỨ ANH ĐÀO
Đối với Việt Nam cũng như Trung
Quốc, Nhật Bản là nước đồng văn.
Cho nên Thơ Nhật Bản bằng chữ Hán
không khác thơ Trung Quốc và thơ Việt Nam nhiều như thơ Pháp thơ Ấn Độ. Bài
“Cửu Châu đệ nhất mai” trích dẫn trong mục “Dưới Mai bàn Thơ” trước đây, là một
bằng chứng.
Nhưng thơ Haikai khác hẳn thơ
Việt thơ Hoa, khác cả tinh thần lẫn hình thức.
Lão không biết tiếng Nhật. Song
nhờ PHẠM CÔNG THIỆN tặng cho quyển LA POESIE JAPONAISE của Karl Petit mà lão
nhận thức, qua Pháp văn, được ít nhiều cái hay cái đẹp trong thơ Haikai, và
thưởng thức được một giấc mộng kỳ thú.
Để gởi niềm tương thân tương ái,
lão chép lại giấc mộng và thêm vào những vần anh đào hái được, làm món quà xuân
tặng ông bạn vong niên.
Có nhiều bạn thân mến ngỏ ý muốn
thưởng thức thơ Haikai. Lão xin đem giấc mộng đã chép ra Vườn Hoa Thơ cống hiến
quí bạn. Theo mộng, quí bạn có thể tìm thấy được nhiều ít hương sắc của hoa thơ
xứ anh đào trong khi tự mình chưa đến được quê hương của Thái Dương Thần Nữ.
Và trước khi bước vào mộng, xin
mời quí bạn thưởng thức bài Haikai của thi sĩ SAIGYO:
VÉRITÉ INADMISSIBLE
Que vraie ! La réalité
Ne le soit aucunement,
J’ en suis persuasé
Mais que les rêves soient ce qu’ils sont
Comment donc l’admettre?
THỰC TẾ KHÓ CHẤP NHẬN
Đúng làm sao!
Không thể nào
Mà thực tế quả như thế
Lòng tôi quyết chẳng nghi ngờ.
Nhưng những giấc mơ
Như thế nào là thế ấy.
Biết làm sao tin được vậy?
o0o
MỘNG GIAO THỪA
Thân tặng Phạm Công Thiện.
Chỉ còn nửa đêm nửa là sang năm
mới. Thế mà bốn bề vẫn vắng thiu thiu. Vì theo lệnh bề trên, pháo xuân đợi đến
Giao Thừa mới được đốt.
Ngồi một chắc trong phòng thơ, LÝ
SINH lấy giấy bút ra tìm vần khiển muộn. Tờ băng cơ trải ngay ngắn trên mặt
bàn, chàng ngồi trầm ngâm cấu tứ. Ngót giờ lâu, không nghĩ ra được một gì mới lạ,
chàng quăng bút, mở cữa bước ra sân. Mùi hoa mận bay phảng phất trong ngọn gió
biển ngọt ngào làm chàng trở nên khoan khoái. Thấy ngõ còn bỏ trống, chàng lững
thững bước ra đường, rồi theo bóng đèn điện mà đi. Chàng không định đi đâu,
thấy lòng thích đi thì cứ đi, đi mãi, không cần nghĩ đến mục đích. Chàng đi
lang thang hết nẻo nầy sang nẻo nọ. Chợt đi ngang qua một kỹ viện; tiếng trống
chiến, tiếng kèn vang vọng như thúc giục như khuyên mời. Trước cửa viện treo
một tấm quảng cáo to tướng:
- Bạn Bình Định đêm nay
diễn tuồng Trầm Hương các.
Đã lâu lắm Lý Sinh không xem hát
bội, vì các ca đông theo thị hiếu của thời nhân, đã phải hạ nghệ thuật xuống
đến bậc quá thấp làm cho chàng ngứa mắt ngứa tai. Nhưng đêm nay, chàng thấy cao
hứng, bèn vào để mua vé xem. Nhưng vừa bước lên thềm thì người gác cửa vội đến
mời vào trong rạp. Chàng bước vào cửa: Trên sân khấu bài trí cảnh hoàng cung
trướng thêu màn gấm, rực rỡ trang nghiêm. Chàng đi thẳng đến hàng ghế đầu, vừa
ngồi xuống, thì một anh kép đóng vai Trụ Vương, áo long cổn, mão thiên miện,
đai ngọc dày thêu trịnh trọng bước ra biểu diễn.
Anh kép trạc đã ngoài năm mươi,
nhưng hơi hám còn tốt lắm. Giọng cao và trong, hơi dài và ấm. Điệu bộ lại thật
mềm mại dịu dàng. Tinh thần của câu tuồng thật lột được trọn vẹn. Lý Sinh ngồi
thưởng thức, lòng vô cùng thích thú. Chàng mừng thầm rằng nghệ thuật cổ điển
chưa đến nỗi điêu tàn đến tận gốc, cái cốt cách của đời thịnh - đời Tự Đức, Đào
Tấn vẫn còn có người giữ được y nguyên. Nhưng không một tiếng trống thưởng! Và
khán giả không được mấy lăm người! Nơi đây năm ba người đàn ông ngồi im lìm như
thiền định, sáu bảy bà lão ngồi vừa ăn trầu vừa kể sự tích trong tuồng cho nhau
nghe. Nơi kia vài cậu thanh niên áo cao bồi ngồi gác chân lên lưng ghế trước
mặt, ngó lên trần nhún vai trề môi. Gần đó mấy cô thiếu nữ ăn mặc đúng thời trang luôn luôn phàn nàn
“sao không ca vọng cổ nghe cho sướng”. Anh kép dường say sưa cùng nghệ thuật,
không để ý đến cảnh bên ngoài, nên thái độ của khán giả không làm cho anh thối
chí. Anh múa hát một cách tự nhiên. Anh hát đến câu:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm, động đào mây giăng.
Nghe giọng hát, nhìn điệu
bộ, LÝ SINH cảm thấy mùi hương bay phảng phất, khí tuyết xông lạnh lạnh, và
trước mắt bóng mây bay chập chờn.. Chàng lim dim đôi mắt để tận hưởng cái tuyệt
mỹ của nghệ thuật và văn chương. Bỗng
chàng vẳng nghe có tiếng:
-
Hay! Hay lắm! Hãy
đánh trống thưởng đi .
Liền đó, một người đàn ông ăn mặc lịch sự bước lên cầm
chầu. Tiếng trống vang dội... Anh kép cao hứng thêm, phất tay áo rộng, vuốt
chòm râu dài, cất tiếng hát tiếp:
-
Khương cù ngợi
hát….
Mở miệng hát mới đến đó thì một tiếng trống “đánh lọt
vào cuống họng” làm anh ta cụt hứng. LÝ SINH bực mình xô ghế, đứng dậy bỏ ra
về…
Nhưng vừa ra đến cửa rạp thì cảnh trời cao gió rộng
làm dịu ngay lòng chàng. Chàng vừa đi vừa nghĩ đến sự tích trong vở tuồng Trầm
Hương Các. Cảnh đền thờ bà Nữ Oa và pho
tượng Nữ Thần bằng trầm hương hiện ra trước mắt. Thật quả là “Đầy áo rơi muôn
hộc thiên hương, Đôi mắt vẽ một người quốc sách”. Rồi những cảnh “Tô Hộ đem Đắc
Kỷ ra kinh kỳ dâng cho vua Trụ”, những cảnh “Đắc Kỷ bị Hồ Ky tinh hớp hồn…”,
những cảnh "Vua Trụ cùng Hồ Ly tinh đội lốp Đắc Kỷ đi dạo vườn hoa”, những
cảnh lộng lẫy trong hòang cung, những nét nũng nịu yêu kiều của mỹ nữ... lần
lượt xuất hiện trong trí chàng như một cuốn phim màu trên màn bạc.
Chàng đương say sưa với mơ thì chợt đến ngõ nhà chàng.
Một người đàn bà ở trong ngõ bước ra, nói khẽ:
-
Còn sớm. Đi chơi
một chốc nữa cho vui.
Nói đoạn, cắp tay chàng đưa đi. Chàng ngoan ngoãn đi
theo… Chàng tưởng chừng mình là Trụ Vương cùng Đắc kỷ đi trong vườn Thượng
Uyển… Nhưng đi được một đọan đường, chàng nhìn kỹ giai nhân thì là một người
đàn bà Nhật Bản!
Giai nhân tuyệt đẹp: Má không phấn mà hường, môi không
son mà thắm. Đôi mắt trong sáng nhưng hiền hậu và đôi chăn mày như đôi lá lan
vẽ vừa đen vừa dài. Tấm thân dong dảy, cân đối, ẩn hiện trong bộ áo kimono tha
thướt màu hồng.
Tuy thường sống trong cảnh mộng nhiều hơn trong cảnh
thực tế của đời, tuy coi đời và mộng như nhau, nhưng trông thấy giai, Sinh
không khỏi ngạc nhiên, chàng dừng lại và tự nghĩ:
-
Không lẽ ta đương
chiêm bao?
Giai nhân nhìn thấy thái độ của chàng thì mỉm cười:
- Có lẽ anh ngờ
em là Hồ Ly Tinh?
Sinh vụt nghĩ:
-
Ta có xúc phạm
chi đến Nữ Oa đâu mà Ngài sai hồ ly tinh đến báo thù? Ủa mà ta có ngôi vàng đâu
mà sợ mất chứ?
Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy làm cho chàng bật cười, và tươi
cười đáp:
-
Nếu quả là hồ ly
hiện hình thì còn chi thú bằng! Chính Bồ Tùng Linh đã nhờ Hồ Ly mà sống.
Giai nhân tỏ ý không bằng lòng, rút tay ra khỏi cánh
tay SINH. Biết mình lỡ lời. SINH vội nắm tay nàng lại, xin lỗi và khẽ hỏi:
-
Em là ai?
Giai nhân đổi giận làm lành, âu yếm đáp:
-
Là người anh đã
gặp tại gác Trịnh Phong.
Chàng sực nhớ lại: Mùa hoa đào năm ngoái, đến phường
TRỊNH PHONG, thăm TƯƠNG GIANG nữ sỹ, chàng thấy trên vách treo một bức tranh mỹ
nhân vẽ hình người đàn bà Nhật. Bức vẽ rất thần tình, trông vào như sống! Từ ấy
bóng dáng mỹ nhân thường lảng vảng nơi tâm trí chàng. Nhưng mấy lúc sau lại
vắng bặt. Nay nghe nhắc đến thì tranh xưa hiện rõ trước mắt chàng. Nhìn lại
giai nhân thì giống hệt người trong tranh. Chàng liên tưởng đến chuyện Bích Câu
Kỳ ngộ, cầm tay giai nhân, hỏi:
-
Em là Giáng Kiều
từ trong tranh xuất hiện. Còn tôi là Tú Uyên tái sinh?
Giai nhân nắm tay chàng dắt đi, vừa đi vừa đáp:
-
Không phải. Anh
là LÝ SINH, người của Thơ của Mộng. Còn em là KOMACHI từ trong tiềm thức của
anh ra.
Lời nói dịu dàng, giọng nói ấm áp làm cho Sinh khoái
trá, không muốn bận tâm nghĩ ngợi gì thêm. Chàng ôm giai nhân sát vào mình và
lững thững cùng đi như đôi tình nhân trong màn ảnh. Vừa đi vừa nói chuyện. Giai
nhân hỏi:
-
Sao khi nãy anh
lại bực mình người đánh chầu?
-
Vì hắn đánh bậy.
-
Hắn đánh bậy vì
hắn không biết đánh, chớ nào phải hắn cố ý đánh bậy đâu? Huống nửa ai lại đem
nghệ thuật cũ trình bày cho người mới xem, thì bảo người ta thưởng thức thế nào
cho đúng mức được.
-
Vậy thì đừng khen
đừng chê.
-
Những người hiểu
thấu đáo một vấn đề gì thì thường thường hay dè dặt vì thận trọng. Còn những
người không hiểu chi cả, hoặc chỉ hiểu đại khái, lại hay khen hay chê, khen chê
để khoe khoang sự hiểu biết của mình. Đó là sự đời, hơi đâu mà bận tâm.
Nghỉ một chút, âu yếm nhìn Sinh, rồi tiếp:
-
Có phải chăng
anh? Xem văn chương, xem mỹ nghệ phẩm là một nghệ thuật, mà nghệ thuật ấy phải có nhiều ít thông minh,
nhiều ít học vấn mới có thể đạt được.
-
Cũng chưa đủ.
Phải có chất Đẹp trong tâm hồn, phải có chất Thơ trong cốt tuỷ. Bằng không thì
nhìn vào đâu cũng không thấy được cái Đẹp cái nên Thơ.
Giai nhân cười ngất:
-
Vậy phải cần có
tâm hồn đẹp mới thấy một nữ nhân đẹp chăng?
Sinh không cười đáp :
-
Giai nhân là một
bài thơ toàn bích, một mỹ nghệ phẩm của Hoá công. Người không có tâm hồn đẹp,
không có cốt thơ, thì nhìn vào chỉ thấy cái vẻ đẹp tầm thường, cái vẻ đẹp của
xác thịt, cái đẹp chốc lát…, chớ không bao giờ nhận thức được cái đẹp của ĐẸP,
cái đẹp của THƠ, tức là cái đẹp SIÊU PHÀM, cái đẹp VĨNH CỬU, cái ĐẸP THẬT. Nhà
nghệ sỹ cũng như nhà thơ, ham mê, tìm kiếm, là ham mê tìm kiếm cái ĐẸP THẬT kia
vậy.
-
Dường như chàng
say mê cái ĐẸP của Trung Hoa?
-
Say mê cái ĐẸP
của Á Đông thì đúng hơn.
-
Vậy anh có thích
cái ĐẸP của Nhật Bản?
Sinh nhìn giai nhân mỉm cười:
-
Nếu bảo rằng
thích thì người ta sẽ cười rằng nịnh. Sự thật thì tôi đương tìm cái Hay cái Đẹp
trong thơ Haikai. Nhưng chưa nắm vững, nên những mong được gần gũi người Nhật
có học có tâm, và mơ ước được sang Nhật một chuyến, thì mới mong hiểu thấu đáo
những cái hay trong thơ Haikai.
-
Vì cảm bụng anh
nên em mới tìm đến.
Nói đoạn kéo tay Sinh bảo ngồi xuống bên gốc cây ở vệ
đường. Đi lâu thấy đã mỏi, sinh vui sướng ngồi tựa lưng vào thân cây. Giai nhân
ngồi tựa mình nơi lòng chàng, đôi mắt nhìn vẩn vơ những ngôi sao vàng trên nền
trời cao rộng. Một luồng khoái cảm chạy êm êm dìu dịu khắp châu thân chàng .
Chàng tự hỏi khe khẽ:
-
Có phải mộng
chăng?
Giai nhân kéo mặt sinh sát mặt nàng và nói:
-
Nếu mộng thì đã
sao?
Sinh cười:
-
Thì khi tỉnh ra
tiếc chết!
Giai nhân cười ngất:
-
Thì mộng trở lại
có khó gì.
-
Nếu muốn mà được
thì ai có muốn tỉnh làm chi cho khổ trí khổ tâm.
-
Thôi hãy ngủ đi
may ra có nằm mộng.
Nói rồi tựa má nàng vào má Sinh mà ngủ. Khí mát của da
thịt, mùi thơm ấm của hơi thở... làm cho sinh ngất ngây đê mê... Rồi chàng ngủ
thiếp…
Bỗng tiếng cu cu gáy. Vài giọt sương rụng trên má
SINH. Sinh giật mình mở mắt: Trước mắt chàng, một cánh đồng cỏ xanh ngát và
rộng mênh mông. Xa xa một hòn núi sắc biếc, đỉnh nhọn và đầy tuyết trắng, mà
bối cảnh là lưng trời xanh nhuộm ánh hồng buổi rạng đông. Chàng lấy làm lạ
lùng, nắm chặt tay giai nhân hỏi:
- Nơi đây là nơi nào?
Giai nhân âu yếm đáp:
- Đây là quê hương em.
-
Nhật Bản?
-
Vâng, chính là
Nhật Bản. Và núi kia là Phú Sỹ sơn.
Sinh hết sức kinh ngạc:
Sao mới ở Việt Nam, mà
chỉ cách một đêm ngủ đường lại
sang đến Nhật Bản?
Giai nhân ôn tồn đáp:
-
Vì sức mạnh của
lòng mơ ước đã đưa thân thể anh vượt qua không gian một cách mau chóng, mau
chóng đến nổi anh không cảm thấy được.
-
Chứ không phải
mộng?
Giai nhân liễm dung:
-
Mộng là gì, nếu
không phải là sự thực không nắm được? Còn sự thực là cái gì, nếu không phải là một
giấc mộng mà lòng ngộ nhận rằng thực? Anh thường lấy mộng và thực trộn lẫn
nhau, và coi nhau như một, sao lúc nầy cứ lẩn quẩn nghĩ ngợi “thực mộng mộng
thực” như thế? Kìa hãy trông kìa..
Lý Sinh trông theo ngón tay trỏ của giai nhân: Mặt
trời lần lần lên khỏi đỉnh Phú Sỹ Sơn, huy hoàng, oai vệ. Từng lớp người, y
trang đẹp đẽ, kéo nhau đi. Giai nhân nói:
-
Người ta đi xem
hoa anh đào nở, vì xuân đã sang. Em xin đưa anh đi xem cho biết
Tay trong tay, hai ngừơi đi về hướng đông. Người đi
nượp đường xá. Hầu hết là người Nhật, rồi đến người Âu, Mỹ. Người Tàu và người
Việt chỉ lưa thưa. Đi giây lâu thì xa xa thấy cánh rừng anh đào bát ngát.. Giai
nhân nói:
-
Trong rừng, người
ta có tổ chức nào quán rượu, nào quán trà, nào trò chơi, nào vũ nhạc…. Rộn rịp
tưng bừng.. Nhưng chúng ta nên tránh nơi náo nhiệt, để có thể hưởng được nhiều
thú vị thiên nhiên.
Nói đoạn đưa Sinh trẽ sang con đường khác vắng bóng
người, rồi đến một quảng rừng hoa trỗ đầy nhánh. Cảnh đẹp thần tiên, sinh không
biết nói làm sao cho rõ được những gì mình đã nhận thấy cảm thấy! Chàng đứng
ngẩn ngơ. Giai nhân cười:
-
Tả làm sao được
vẻ thần tiên của anh đào? Các nhà thi sỹ Nhật Bản cũng đành gác bút. Xưa kia mà
thi hào TEISHITUS (1610-1673) thú thật rằng không đủ lời để ca tụng, đành phải
than lên mặt giấy “Kore Wa! Kore Wa!” Nghĩa là “Ôi đẹp quá! Ôi đẹp quá!” Mà
thôi.
-
Vâng nhà thơ dù
có tài đến đâu cũng chỉ có thể nói lên được những cái hữu hạn. Còn những cái vô
cùng đành phải nhượng cho hoá công.
-
Không nói được
những cái vô cùng, nhà thơ lại nói được những cái mà người thường không thấy
hoặc thấy mà không nói lên được. Như trong khung cảnh đi xem hoa anh đào, thi
sỹ KIKAKU (1661-1707) nhặt được một hình ảnh vừa thương tâm vừa đáng kính mến:
Xem anh đào
nở hoa,
Theo sau mẹ
Em bé loà!
Chao ôi! Vì ưa thích hoa đến nỗi không thấy gì mà cũng
cứ đi xem! Trong lúc nghìn muôn mắt đều để cả vào vẻ đẹp của hoa, ngoài thi
nhân ra, có ai để ý đến em bé đáng thương ấy! Thi sỹ SHIKO (1665-1731) lại
trông thấy một cảnh tượng khác buồn cười nhưng cũng đáng thương:
Đi xem anh
đào nở,
Tiền mất cắp
không ngờ:
Chàng nông
phu ngu ngơ!
Trong quanh cảnh đẹp đẽ như thế ai ngờ lại có những
chuyện đáng buồn đáng thương như kia! Mà phải chi trong cảnh đi xem hoa anh
đào! Trong đời, cảnh nào lại không có mâu thuẫn tương trợ, mà hai bài anh đào
là tượng trưng.
Sinh nói:
-
Vì không hiểu
tính cách tượng trưng của thơ Haikai, nên có nhiều người bảo rằng thơ Nhật chỉ
đẹp như những con poupées của trẻ em chơi.
Giai nhân đáp:
-
Người Việt Nam có
câu: “Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời”. Người Nhật cũng có câu tương trợ:
“Nhái ở giếng làm gì biết được đại dương”. Mình cũng không nên trách họ. Thấy
được cái lớn trong cái nhỏ, thấy được vũ trụ trong giọt sương mai, phải là
người có con mắt tinh vi, có trí não sáng suốt, có học thức sâu rộng… chớ “loài
ếch loài nhái” thì chỉ có “đẻ vãi xuống sông, trứng bám theo rong, nở ra nòng
nọc..” vậy thôi.
Sinh cười ngất:
-
Nghe nói người
đàn bà Nhật hiền lành lắm mà?
Giai nhân cười, đáp:
-
Bởi vì sanh
trưởng nơi Việt Nam nên bị biến chất.
-
Thế thì làm gì
hiểu thấu đáo được thơ Nhật?
-
Tuy không thấu
đáo nhưng cũng có thể hiểu được sâu vì chưa mất gốc.
-
Vậy xin nói cho
nghe qua về thơ Nhật.
-
Em chỉ xin nói
đại khái về thơ Haikai, và chỉ nói đại khái về tánh cách:
Thơ Haikai rất thịnh hành ở thế kỷ thứ XVII. Và chỉ
gồm có 3 câu. Câu thứ nhất 5 tiếng, câu thứ nhì 7 tiếng và câu thứ ba 5 tiếng (syllabes: ngũ ngôn, thất ngôn,
ngũ ngôn). Ba câu ấy là ba hình ảnh hợp lại để tạo thành một hình ảnh mới lạ
đầy mộng đầy thơ. Người thơ không nói hết ý. Họ chỉ nói lên một phần thôi, còn một
phần lớn thì để cho trí tưởng tượng của người đọc. Thơ Haikai chỉ gợi chứ không
tả, không nói rõ. Nó chứa đựng những cái bí ẩn mà người đọc phải tự tìm lấy. Ý
tứ trong thơ rất dồi dào. Chúng ta có thể hiểu nhiều cách, tuỳ khả năng lãnh
hội của từng người.
Simh tiếp:
-
Đọc thơ là sáng
tác. Lời này áp dụng vào lúc đọc thơ Nhật lại càng đúng.
-
Nhưng thôi. Khi
khác sẽ bàn rộng. Hôm nay nên để ý đến hoa.
-
Mùa xuân ở Nhật
Bản chỉ có hoa anh đào thôi ư?
-
Hoa anh đào là
tượng trưng tâm hồn người Nhật. Ngoài ra còn rất nhiều thứ hoa khác. Như hoa
Mai chẳng hạn, âu là chúng ta hãy đi thăm vườn mai của quan thị thần TSURAYUKI.
Giai nhân đưa Sinh đến một khoảng vườn rộng chừng mươi
mẫu, hoa bạch mai nở đầy và mùi hương đưa bát ngát. Giữa vườn, một khóm mai cao
lớn, thân hình cổ kính, nhánh nhóc hoành tà trông thật đẹp mắt. Giai nhân dắt
SINH luồn qua hoa mai, đến bên cạnh khóm lão mai ấy, và nói:
-
Khóm mai này sống
đã trên 10 thế kỷ. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ X, trong vườn Ngự có một khóm mai
quí bị sùng ăn gốc, héo rồi chết dần. Thiên Hoàng MURAKAMI truyền cho quan giữ
vườn tìm cây mai khác thay thế. Nhân thấy nơi
vườn quan thị thần TSURAYUKI có khóm mai mới ra hoa xinh đẹp không kém
khóm mai vườn Ngự, viên quan giữ vườn bèn tâu cùng Thiên Hoàng. Thiên Hoàng
liền hạ lệnh cho quan thị thần bứng khóm mai kia đưa vào Thượng Uyển. Người con
gái của Thị thần thương tiếc khóm mai, làm một bài thơ treo nơi cành. Thơ rằng:
Vì lệnh
Mikado
Nên thiếp vui
lòng phụng hiến.
Nhưng thiếp
biết nói lời gì
Khi chim hoa
lau về hỏi chốn ngày xưa!
Thiên hoàng xem thấy, cảm động, liền truyền đem mai
trồng lại nơi vườn xưa. Và từ ấy đến nay, chủ vườn đã tàn không biết bao nhiêu
lớp, mà khóm mai vẫn tươi thắm cùng tuyết sương.
Sinh vỗ tay khen:
-
Thật nên thơ!
Thật đẹp đẽ thay tâm hồn người Nhật!
Giai nhân cười:
-
Thi nhân mà cũng
biết nịnh ư?
-
Không. Đó là thật
lòng khen ngợi. Những gì dối trá đâu có nên thơ.
Giai nhân sung sướng, dắt Sinh ra khỏi vườn. Hoa mai
rơi dính đầy mình hai người, chẳng khác những điểm tuyết có mùi hương. Sinh thích ý nói:
-
Em là một tiên nữ
mình mọc đầy sao!
Giai nhân cười:
- Còn anh là người thơ của Hàn Mặc Tử “đầy mình lốm
đốm những hào quang”.
Lý Sinh thích quá ôm giai nhân vào lòng. Giai nhân
cười:
-
Người thơ lắm lúc
không nên thơ tí nào cả.
Sinh cũng cười:
-
Đó là tại cái
chất của thơ chưa tan biến.
Giai nhân cười ngặt nghẽo, rồi nói:
-
Hãy mang chất thơ
ấy đi theo tôi đến thăm khóm mai của thi sỹ MICHIZANE (844-903). Đây là
một cây mai biết bay.
-
Cây mai biết bay?
-
Vâng, đã trên
nghìn năm nay người Phù Tang vẫn truyền thế. Truyền rằng thi sỹ MICHIZANE đi
xa, xuân đến không về thăm nhà được, nhớ khóm mai trong vườn, bèn sáng tác mấy
vần thơ “ Nhắn Mai Vườn Tôi” rằng:
Ngọn nồm bay
sang
Hương đưa dịu
dàng.
Ơi mai vườn
cũ
Em dù vắng
chủ
Chớ lòng quên
xuân.
Khóm mai nơi vườn thông cảm, đương đêm bay đến nơi thi
sỹ trú và mọc ngay ở trước sân, hoa nở đầy nhánh. Sáng thức dậy trông thấy cành
mai của mình, thi sỹ cảm động quá, ôm mai mà khóc. Cây mai cũng khóc, những
giọt lệ hoa nhỏ đầy tóc thi nhân, biến thi nhân thành một khóm mai bằng ngọc,
nhưng biết nói…
SINH lấy làm thích thú quá, giục giai nhân đi cho mau.
Giai nhân làm bộ giật mình:
Ủa! Mà quên!
-
Quên cái gì?
-
Quên nói rằng sau
đó ít lâu thi sỹ qua đời, cây mai liền bay theo hồn thi sỹ. Nay nơi đó chỉ còn
khoảng đất không. Chúng ta có đến cũng vô ích…
Sinh cười lớn:
-
Thế là cụt hứng!
Giai nhân hóm hỉnh đáp:
-
Miễn chất thơ vẫn
còn.
Đoạn chỉ ra trước mặt:
Kìa mấy khóm thuỳ dương. Đó cũng là một nguồn thơ xuân
của Nhật Bản.
SINH nhìn theo. Nơi khoảng đồng cỏ xanh non điểm hoa
nhiều màu, mọc rải rác những khóm dương
lá cành tha thướt. Một ngọn gió đưa, tiếng nghe như sáo thổi, và tơ xanh bay
phất phơ… Giai nhân nói:
-
Sau những trận
mưa xuân, trông những khóm dương kia mới thật là đẹp. Thi sĩ ISE của thế kỷ thứ
X có bài “hạt châu xuân” rất lý thú, rằng:
Trên khóm dương xanh
Đeo nơi cành
Mưa xuân từng giọt..
Sợi tơ mành
Xuyên qua thành chuỗi hạt minh châu.
Giai nhân vừa nói vừa dắt Sinh đến ngồi dưới gốc một
khóm dương. Mặt trời đã lên cao, bầu trời quang đãng. Vạn vật tắm ánh xuân vừa
lộng lẫy vừa dịu dàng. Tiếng chim trên
cành đua nhau hót véo von. Giai nhân
ngồi sát bên cạnh Sinh, lấy tay Sinh choàng lên
vai mình, và ngả đầu vào vai Sinh, ngồi lim dim đôi mắt:
-
Đến Nhật Bản, ai
nấy đều tìm đến Đông Kinh trước. Đông Kinh là nơi giàu sang nhất nước Nhật.
Nhưng đến đó sẽ bị cái hào nhoáng của vật chất đánh lạc mất cái thâm thuý của
tinh thần. Vì anh muốn tìm hiểu tâm hồn người Nhật qua thơ Haikai, nói cho đúng
hơn là tìm chân vị trong thơ Haikai, nên em phải đưa anh đến những nơi thanh
vắng của nước Nhật. Rồi đây tự anh sẽ đi lần lần vào trong các nơi sâu xa hơn,
bí ẩn hơn.
Sinh hơi chột lòng, nắm chặt tay giai nhân hỏi:
-
“Tự anh sẽ đi tìm
lấy”? Như vậy em muốn bỏ tôi sao?
-
Bỏ thế nào được.
Em đã do lòng mơ ước của anh hoà với Thơ với Mộng mà kết tinh, thì em chỉ xa
anh khi nào anh đã chán ghét… Nhưng thôi đi mệt quá. Anh để cho em nghỉ giây
lát cho lại hơi.
Nói xong nhắm nghiền đôi mắt. Sinh cảm thấy một hơi lành lạnh thấm từ vai chàng thấm dần xuống ngực…, xuống
tay chân… Chàng cũng nhắm đôi mắt lại để hưởng cái cảm giác lạ lùng ấy. Chàng
cảm thấy say say như ngửi quá nhiều mùi hoa dạ nguyệt hương trong gian phòng
kín… Chàng đương bàng hoàng thì một bàn tay đập lên vai chàng... Chàng giật
mình mở mắt, thì thấy mình đương úp mặt trên tờ băng cơ, và đứa con gái đứng
bên chàng gọi:
-
Ba dậy cúng giao
thừa!
Và ngoài trời tiếng pháo bắt đầu nổ… Chàng đứng dậy
nhìn lên hương án. Lư trầm bốc khói bay lờ mờ bóng áo long cổn và bóng áo
kimono…
Xuân 1963