HOA TỨ THỜI
Ông
bạn già KÍNH SƠN ở Bình Khê vào thăm Lão Vườn, và tặng Vườn Hoa Thơ một khóm
hoa Mùa Hạ:
Cũng thì đất
chở cũng trời che.
Nồng nã làm
chi lắm hỡi hè
Khắc khoải đã
đau lòng cái cuốc
Băn khoăn thêm xót cật con ve
Người ngồi trướng gấm mồ hôi chã
Kẻ hái rau tần nước bọt se
Chẳng thương
bồ liễu phận le the.
Ông
bạn hỏi có biết tác giả là ai chăng. Lão đáp:
- Đây là một trong bốn bài Tứ Thời trong Hồng Đức Quốc Âm
Thi Tập. Cả bốn bài lão đã được đọc qua song không nhớ, vì thơ kém vị, đọc
không thích khẩu khoái tâm.
Kính
Sơn nói:
- Thơ thời Hồng Đức, lời văn có phần nặng, chữ dùng có
nhiều chữ cổ. Bài nầy văn chương nhẹ nhàng trôi chảy. Tôi ngờ không phải thơ
xưa quá.
- Thơ thời, Thịnh Lê phần nhiều lời còn nặng thật. Song
tất cả gì gì cũng đều có ngoại lệ. Trong mùa đông có ẩn tàng khí xuân, trong
mùa hè có ngầm chứa khí thu. Những gì tiềm tàng đó đôi khi thoáng hiện. Mình
không suy kỹ nghĩ chín, cho là bất thường là ngoại lệ vậy thôi. Riêng nói về
bài thơ này, nếu như lão không được mắt thấy trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập thì
cũng không dám tin là thơ xưa.
- Lão Vườn thường nói thơ cũng như hoa chỉ thích hợp với
khí ôn hoà. Cho nên mùa hạ quá nóng, mùa đông quá lạnh, thơ và hoa không có
nhiều. Tôi nhận thấy đúng.
- Chỉ đúng phần nào thôi. Mùa đông hoa ít thật. Hoa mai
là linh hồn của mùa Đông. Song cũng phải đợi đến đông chí nhất dương sanh, mới
ra chồi nảy nụ. Còn mùa hạ thì ngoài hoa sen dưới nước, còn có hoa ngâu trên
gò, hoa lài trong vườn, hoa phượng hoa hoè trong rừng trên đường… Nắng nóng bao
nhiêu, tươi thắm bấy nhiêu. Thơ của đất thì như thế. Còn hoa của người thì lão
chưa được đọc nhiều bài có thể sánh với các loại hoa kia. Gần đây lão có nghe một bài:
Ai xui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê
Đầu cành gọi bạn oanh xao xác
Trong tối đua bay đóm lập loè
Chẳng được nồm nam cơn gió thoảng
Đàn ta ta gảy khúc Nam nghe.
Tuổi già lú lẫn, lão chắc có nhiều chỗ sai…
Đem so cùng bài đời Hồng Đức thì không hơn mấy. Nhiều người bảo tác giả là cụ
Tam Nguyên Yên Đỗ. Song đã có sách báo cải chính. Tiếc rằng lão không nhớ tên.
Bài nầy và bài trên kia giá trị ngang ngang
với hoa lài hoa ngâu.
Vịnh cảnh mùa hè, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ có câu:
Trâu già núp bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn bóng người.
Có ở vùng quê Bắc Việt, mới thấy câu này là
những nét phác hoạ thần tình.
Kính Sơn gật đầu và hỏi:
- Có thể sánh với
hoa sen chăng?
Vốn chủ trương “văn hoành công khí”, lão đáp:
- Hoa sen gồm đủ ba
yếu tố hương, sắc, thiệt mà các danh hoa phần nhiều không có đủ. Phù dung, hải
đường… có sắc không hương, mẫu đơn, tường vi…, có sắc có hương lại không có quả.
Thơ phần nhiều cũng thế. Thơ mà sánh nổi với hoa sen, thật hiếm lắm. Câu thơ
của cụ yên Đỗ có mùi hương của hoa cam hoa bưởi nhưng có hình sắc của hoa
phượng, hoa hoè. Nghĩa là thơm, đẹp,
nhưng không thanh.
Muốn
tìm hoa sen phải dạo qua vườn thơ của Đương, Tống, Thanh. Trong thơ chữ Hán
Việt Nam
cũng có lắm bài có giá trị của hoa sen. Như thơ trong Lữ Đường Di Cảo Thi tập
của Thái Thuận đời Lê Thánh Tông:
HẠ CẢNH
Nam phong
đình viện nhật như niên
Diện đối thư
song cổ thánh hiền
Bàng xế lựu
ba hồng phún hoả
Nhập liêm
thảo sắc lục sanh yên
Nguyên hanh
lý khế Bào Hy dịch
Khang phụ
công qui Đế Thuấn huyền
Thiên cổ đạo
tâm hô đắc khởi
Hoè long ảnh lý
tịch dương thuyền.
Tạm
dịch:
Thánh hiền
đối bóng thư trai
Gió Nam
thổi lọt ngày dài như năm..
Hồng phun lửa
lựu quanh thềm
Xanh đưa sắc
cỏ vào rèm khói sanh
Bào Hy vạch
lẽ nguyên hanh (1)
Dân khang vật
phụ công dành Đế Ngu (2)
Dấy nên lòng
đạo nghìn thu
Hoè buông
bóng xế dặm cù ve ngâm..
Câu
trạng tuyệt diệu!
Trong
Bích Câu Kỳ Ngộ có câu:
Đua chen thu
cúc xuân đào
Lựu phun lửa
hạ mai chào gió đông.
Trong
Đoạn Trường Tân Thanh có câu:
Tiếng quyên
nay đã gọi hè
Đầu tường lửa
lựu lập loè đơm bông.
Nếu
lão đoán không sai thì đều do nơi câu “Bàng xế lựu ba hồng phún hoả” mà ra cả.
Kính
Sơn cười:
-
Biết đâu câu của Thái Thuận lại không do Bích Câu và Đoạn Trường mà ra.
Lão
nhìn ông bạn mà cười:
- Có lẽ kiếp trước của Kính Sơn là Võ Tắc Thiên.
- Võ Tắc Thiên có liên quan gì với ý kiến của tôi?
- Có chứ . Võ hậu có người yêu là Lục Lang, người đẹp
như tranh vẽ. Thiên hạ thường khen rằng mặt Lục Lang đẹp như hoa sen. Vô Hậu
bác đi, và nói: “phải khen rằng hoa sen đẹp như mặt Lục Lang”. Tức là Võ Hậu
bảo ngầm rằng hoa sen đã bắt chước Lục Lang mà đẹp.
- Nghĩa là Lão Vườn muốn nói rằng 2 tác giả Bích Câu và
Đoạn Trường có thể bắt chước Thái Thuận, chớ Thái Thuận không thể bắt chước
Đoạn Trường và Bích Câu?
- Chính vậy. Vì Thái Thuận ở đời Lê Thánh Tông còn Bích
Câu và Đoạn Trường ở vào thời Lê mạt Nguyễn Sơ.
Câu “Bàng xế lựu ba hồng phún hoả” còn cao
hơn hai câu quốc âm kia một tầng. Trong Bích Câu thì “Lựu phun lửa”, trong Đoạn Trường thì “ lửa đơm bông”. Rằng hay thì thật là hay. Nhưng chất sanh chất, sao
bằng sắc sanh chất, “sắc đỏ phun ra lửa”.
Câu “
Nhập xiêm thảo sắc lục sanh yên” đem
sánh với câu “ lam Kiều nhật noãn ngọc
sanh yên” trong bài Cẩm Sắc của Lý Thương Ẩn đời Đường, thì câu của Thái
Thuận cũng cao hơn. Vì câu của Lý Thương Ẩn đẹp ngang hai câu của Tố Như và tác
giả Bích Câu Kỳ Ngộ. (Xem thêm phần góp ý của Quách Tạo nơi Phụ trang 2 mục A)
Về
văn chương về tình tứ, về mặt thơ, mặt nghệ thuật, thì cặp trạng là tuyệt diệu
từ. Còn về hàm súc thì cặp luận.
Kính
Sơn nói:
- Cặp luận dùng điển mắc mỏ quá. Nếu không đọc sách
nhiều thì thật không hiểu tác giả muốn nói gì. Như thế là bí hiểm chớ sao gọi
là hàm súc?
Lão
đáp:
- Cổ nhân có ngờ đâu con cháu bỏ chữ Hán để học chữ Pháp
chữ Anh. Nếu biết trước thì chắc không dùng điển làm gì cho khổ con cháu. Và
những điển kia đối với chúng ta thì mắc mỏ thật, chớ đối với những người thâm
Hán học thì đọc qua là hiểu ngay, vì chính là điển. Còn một điểm này nữa mà xưa
nay có nhiều người hiểu lầm: Thơ hàm súc là thơ ngậm chứa nhiều ý nhiều nghĩa,
chớ không phải thơ dùng nhiều điển cố. Điển cố chỉ mượn để làm cái giàu cho hoa
thiên lý hương leo và nảy nở sum thạnh đó thôi. Hoa thiên lý hương là ý nghĩa
tác giả gởi gấm nơi điển cố. Cho nên xem thơ phải tìm ý nghĩa ở ngoài điển cố,
chớ không nên chú tâm chú mục nơi điển cố mà không thấy được chân tướng của câu
thơ.
- Lão Vườn thử giải thích đại lược câu thơ ấy.
- Tác giả muốn nói rằng: Vạn vật sinh thành là nhờ bốn
đức lớn của trời đất. Bốn đức lớn ấy là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Nhờ vua Phục
Hy khởi xướng đạo Dịch mà chúng ta đựơc biết rõ lẽ ấy. Như vậy thì dân được
khang (yên vui), vật được phụ (dồi dào) là nhờ lượng bao dung của Trời Đất chớ
đâu phải nhờ Vua Thuấn mà ông Cao Dao
lại qui công cho vua Thuấn khi nghe vua Thuấn gảy khúc Nam Phong.
Đó là
nghĩa đen.
Còn
nghĩa bóng thì tác giả muốn ám chỉ vua Lê Thánh Tông. Triều đại vua Lê Thánh
Tông được coi là một triều đại thịnh
nhất từ xưa tới nay. Vua được các nhà danh sỹ đương thời, nhất là nhóm nhị thập
bát tứ trong Tao Đàn, làm thơ xưng tụng công đức. Thái Thuận ngầm chỉ trích
việc tán dương nhà vua của đám danh sỹ, và phủ nhận công đức nhà vua.
Nhưng
cặp luận chưa mỉa mai bằng chuyển, kết. (Xem thêm Phụ trang 2 mục B)
Chuyển
và kết ngụ ý chê đạo tâm lúc bấy giờ không còn nữa. Mà đạo tâm không còn nữa
thì làm gì nhà vua có thể là người có đức lớn. Những người muốn chấn hưng đạo
đức có rát hầu rát họng hô hào thì cũng chẳng khác bầy ve kêu trong bóng cây
ven đường cái lúc trời chiều.
Kính
Sơn trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Làm thơ đã khó mà xem thơ không phải dễ dàng. Lời giải
thích của Lão Vườn tôi công nhận là thâm thuý, song biết có đúng ý của cổ nhân
chăng?
Lão
cười:
- Thái Thuận ra đời trước lão trên dưới 500 năm. Làm sao
lão biết được chắc chắn là đúng hay không đúng. Lão chỉ dựa trên đôi sự kiện
lịch sử, đôi mảnh tâm sự của tác giả giấu díếm trong tập Lữ Đường mà nhận xét
đó thôi. Huống nữa Tây Phương có câu “Lire c’est créer”, tức “đọc là sáng tạo”
thì dù không đúng ý của cổ nhân mà hợp tình hợp lý là được. Người đọc phải
phong phú những gì mình đọc, thì mới có ích lợi cho mình và cho người. Cho nên
hễ một bài thơ hay vào tay, thì lão thả lòng người đi ngược đi xuôi rồi đi sâu
vào từng hàng từng chữ.
Dường
có điều chi nghi ngờ, Kính Sơn lại hỏi:
- Lão Vườn có thể cho biết vì sao Thái Thuận làm quan
cùng vua Lê Thánh Tông mà lại tỏ ý không phục vua Lê?
Không
dám trả lời một cách quả quyết, vì lão chưa nghiên cứu kỹ càng về thân thế của
Thái Thuận, mà mới đọc qua tiểu sử chép sơ lược trên mươi hàng, lão đáp:
- Thái Thuận đậu tấn sỹ, nhưng suốt hai mươi năm trời
chỉ làm một chức quan nho nhỏ trong Các. Nếu lão không lầm thì vì có tài mà
không được trọng dụng nên sanh ra bất mãn. Đó là theo thường tình trong thiên
hạ mà nói, chớ biết đâu lại không còn những yếu tố khác, những yếu tố khách
quan. (4)
- Muốn nhận thức thấu đáo ý nghĩa một bài thơ hàm súc,
cần phải biết rõ thân thế của tác giả.
- Trường hợp sáng tác, động cơ thúc đẩy việc sáng tác…
cũng là những yếu tố cần thiết.
- Trong khi chúng ta chưa nắm được những yếu tố cần
thiết thì tạm bằng lòng những điều chúng ta đã nhận thức được. Có điểm này tôi
cần biết thêm: Hương và sắc là cái hay cái đẹp của bài thơ. Tôi đã thấy rõ
trong bài Hạ Cảnh của Thái Thuận. Còn phần Thiệt thì như sau?
- Thiệt là Trái, là Sự
ích lợi của bài thơ đối với đời. Bài thơ của Thái Thuận ngoài giá trị
văn chương, còn giá trị lịch sử: Nhìn vào đó chúng ta biết được đôi cạnh khía
xã hội thời Lê Thánh Tông, thời mà sách sử phần nhiều chỉ chép những điều tốt.
Những bài thơ có ích cho đời tạm gọi là phục vụ nhân sinh, thường thường nghệ thuật
không cao đẹp lắm. Bài của Thái Thuận thật hoàn hảo. Cho nên lão sánh với hoa
sen kể không ngoa, có phải chăng hỡi ông bạn già Kính Sơn? (Xem thêm phụ trang
2 mục C)
Kính
Sơn vuốt cằm không râu, khẽ khẽ ngâm:
Hè sang tán lửa càng cao
Khúc ca giải uẩn lựa vào năm đây.
Vận ống lữ tiết vừa sang hạ
Bính Đinh về hiệu lệnh Chúc Dung. (a)
Quanh ngọn tường lửa lựu phun hồng
Tràn mặt nước tàn sen nảy lục.
Trì dường tịnh trưởng tôn ông trúc (b)
Ly lạc tề khai tỷ muội hoa. (c)
Buổi thời huân mấy khúc cầm ca
Với trời đất cũng sinh sinh trưởng trưởng.
Hé mành ngọn nam phong thoảng thoảng,
Người Hy Hoàng dáng cũng dường này (d)
Thú màu dễ mấy ai hay (5)
Đi
ngang qua Vườn Hoa Thơ, nghe ông bạn Kính Sơn Nguyễn Đồng cùng lão nói chuyện
về thơ mùa hè, thầy MAI CAO LƯƠNG, thầy học cũ của lão, và ông bạn NGUYỄN KHẮC
TUÂN ghé vào tặng thêm cho vườn một số hoa xưa, và chỉ cho đôi chỗ sai trong
cuộc đàm thoại.
Thầy
Mai:
- Bài thơ Mùa Hè mà ông bạn Nguyễn Đồng đem tặng Vườn đó
nhan đề là TRÁCH HÈ. Câu thứ tư, chữ thứ
tư, tôi nghe truyền là TỨC chớ không phải là XÓT (Băn khoăn thêm tức cật con
ve). Câu kết, hai chữ chót là LE TE chớ không phải LE THE (Chẳng thương bồ liễu
phận le te).
Nguyễn
Đồng:
- Trên nổi lên với hai chữ BĂN KHOĂN mà dưới xuống chữ
TỨC, tôi nhận thấy không ổn bằng chữ XÓT. Còn BỒ LIỄU vừa nói về hai giống cây
yếu ớt không chịu nỗi khí nóng mùa hè vừa ngụ ý nói về thân phận người đàn bà
để bổ túc cho cặp luận. Như vậy chữ LE THE là thưa thớt mà có vẻ mềm yếu lướt
thướt, thiết tưởng ăn ý hơn chữ LE TE.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Trong sách Littérature Annamite của G. Cordier, tôi
thấy cũng chép là TỨC CẬT và PHẬN LE TE. Chúng ta nên theo sách thì hơn. Mặc dù
chữ của chúng ta sửa đó hay hơn.
Nguyễn
Đồng:
- Không phải tôi tự ý sửa thơ cổ nhân. Chính tôi nghe
các bậc tiền bối đọc như thế.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Nghe miệng sao bằng thấy sách.
Lão
chen vào:
- Sách dạy: Tận tín thư bất như vô thư. Huống nữa các
ông viết sách kia chắc chi đã sao y chính bản do chính tay tác giả chép lấy.
Các ông ấy cũng chỉ sao lại những bản sao mà thôi. Mà đã tam sao thì nhất định
là thất bổn. Do đó mà cổ nhân dạy không nên tận tín thư.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Không tin nơi sách thì tin nơi đâu bây giờ?
Thầy
Mai:
- Ý Lão vườn muốn mình tin vào lẽ phải chớ gì? Nhưng
trên đời có nhiều lẽ phải lắm. Lẽ phải bên này chân núi chưa hẳn là lẽ phải bên
kia chân núi, lắm khi còn trái ngược là khác.
Lão
cười:
- Lẽ phải của mình.
Ông
bạn Nguyễn Khắc Tuân vỗ đùi cười lớn:
- Thôi, bắt được quả tang rồi!
Cử
toạ chưa ai nhận thức được ẩn ý trong lời kia, thì Nguyễn Quân tiếp:
- Những thơ xưa do Lão Vườn đưa ra lâu nay, thấy có
nhiều chữ nhiều câu khác với những bài trong các sách báo, tôi đã ngờ rằng Lão Vườn
tự ý sửa chữa. Nay nghe lý luận của lão thì đủ bằng chứng để quả quyết rằng
chính thị lão rồi chớ không còn nghi ngờ gì nữa.
Lão
cười:
- Sửa thơ của cổ nhân không lợi cho bản thân. Bởi nếu
sửa lỗi thì bị cổ nhân quở phải giảm thọ. Bằng sửa hay thì cổ nhân thích ý mời
xuống cõi âm làm bạn cho vui, như vậy làm sao bò lên địa vị ông Bành Tổ mà lão từng
ao ước được. Cho nên lão đâu có dại.
Thầy
Mai:
- Nói vậy hay vậy. Thôi để tôi đọc thêm ba bài Trách
Xuân, Trách Thu, Trách Đông nữa hợp với Trách Hè cho đủ tứ quí:
TRÁCH XUÂN
Xuân một năm
sang chỉ một lần
Sự xuân tôi
chửa thấu lòng Xuân
Cũng màu thắm
ấy màu xanh ấy
Sao chốn hơn
phân chốn thiệt phân
Dễ khiến má
hồng lo áy náy
Thêm hương
đầu bạc giận tần ngần
Thôi thôi chớ
tiếc xuân qua cõi
Xuân ở cùng
ta biết mấy lần.
TRÁCH THU
Nước biếc non
xanh khéo hẹn hò
Thu sao lạnh
lẽo mấy là thu
Rắp lòng đổi
lá thay hoa chắc
Toan nỗi hờn
sương giận tuyết ru
Khiến nguyệt
lạnh lùng thâu trướng vóc
Xui may hiu
hắt lọt chăn cù
Ví ai cho
nhắn tin nhàn tới
Chẳng lẽ đau
lòng khách vọng phu.
TRÁCH ĐÔNG
Chẳng thương
cỏ áy nhị non cùng
Lạnh lẽo làm
chi riết mấy đông !
Chiếu kẻ
phòng loan ghê tựa nước
Chăn người
cung quế lạnh như đồng
Khách đà
thanh thảnh về xe hạc
Mình vẫn nhơn
nhơn nấp bóng thông
Đêm đã thêm
canh ngày bớt khắc
Làm chi riết
mấy hỡi thiên công.
Đọc
xong nói thêm:
- Đó là nghe sao nhớ sao thì đọc vậy. Họ Nguyễn thấy có
chữ khác câu khác với sách thì chớ ngờ oan đó nhé.
Nguyễn
Khắc Tuân cười:
- Nhà dột có nơi, chớ đâu phải đụng ai ngờ nấy. Tôi đọc
sách của Cordier từ lúc còn đi học, cách đây trên dưới bốn mươi năm rồi, nên
không thể nhớ rõ chỗ nào dị thù chăng..
Nguyễn
Đồng:
- Công việc đó hãy nhượng cho các nhà khảo cổ. Vào Vườn
Hoa Thơ, chúng ta nên tìm hưởng sắc đẹp hương thơm sẵn có trước mặt. Vậy chúng
ta thử xem ba bài Xuân Thu Đông có những
điểm gì đặc sắc chăng?
Thầy
Mai:
- Văn chương thanh lão. Và dường như tác giả là người có
tài mà không được trọng dụng hoặc bị thất sủng, nên mượn lời đàn bà trách hoá
công để trách đấng quân vương.
Ai
nấy đều biểu đồng.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Chữ “Sự Xuân” nghe sao nghệch nghệch không sướng. Tại
sao lại không nói là “Việc Xuân”?
Lão
đáp:
- Sự đây không phải là Việc, mà là phụng sự.
Thầy
Mai:
- Lâu nay tôi cũng ngỡ SỰ là VIỆC. Phải, SỰ đây là PHỤNG
SỰ. Như vậy nghĩa câu thơ mới rõ và mới xuôi: “Phụng là sự xuân lâu ngày mà
chưa hiểu nổi lòng xuân”.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Dù SỰ nghĩa là phụng sự đi nữa, đọc hai chữ “Sự Xuân”
nghe cũng không sướng tai
Lão
đáp:
- Mấy bài thơ đó là sản phẩm thời Hồng Đức. Cho nên chữ
dùng và cách dùng chữ có phần cổ. Những bài đã có tiến bộ hơn trong Hồng Đức
Quốc Âm thi Tập, nên chúng ta chỉ gặp một đôi chút lạ mắt lạ tai. Như "Sự xuân Thâu trướng vóc, Ghê tựa nước.”
Chớ nếu chúng ta đọc hết tập Hồng Đức thì còn thấy nhiều điểm ngượng ngập trục
trặc bội phần. Muốn khoái khẩu khoái tâm, thì nên đọc thơ thời Lê mạt Nguyễn sơ là thời thịnh đạt của
thơ Hàn luật.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Khi nãy bạn Nguyễn Đồng có đọc bài ca trù về Cảnh Hạ
của Nguyễn Công Trú. Nguyễn Tướng Công còn ba bài Xuân, Thu, Đông nữa. Tôi
thuộc không sai một chữ. Lão Vườn đã có trong số hoa tàng trử chưa? Nếu cần tôi
xin biếu.
- Lão ít thích lối ca trù, nên không tích trữ.
- Lão vườn không thích, mà có khách đến dạo vườn thích
thì lấy gì mà đãi? Nên dự trữ thì hơn:
CẢNH XUÂN
Xuân sang hoa
cỏ thêm tươi
Khoe màu quốc
sắc trẻ mùi thiên hương
Đầm ấm thuở
tin xuân phút bắn
Khí phát sinh
rải rác trên cành
Thử tập bay
bướm mới uốn mình
Muốn học nói
oanh còn lạ tiếng
Liễu hoàn cựu
lục oanh do tĩnh
Đào thi tân
hồng điệp vị tri (6)
Mái đông
phong mày liễu xanh rì
Đám tàn tuyết
đầu non trắng xoá
Buổi hoà hú
khí trời êm ả (7)
Hội đạp thanh
xa mã dập dìu
Nghìn vàng
một khắc xuân tiêu.
CẢNH THU
Trời thu bảng
lảng gió chiều
Mây về ngàn
Hống buồm treo ráng vàng (8)
Sang thu tiết
hơi may hiu hắt
Cụm sen già
lã chã phai hương
Sương giày
dạu cúc đóa hoa vàng
Son nhuộm non
đào cành lá đỏ
Lãnh vũ như
ti trùng chức dạ
Tình thiên
tác chỉ nhạn thư không (9)
Phút đâu một
trận hảo phong
Trên cung
Quảng xa đưa hương quế
Trời biên
biếc nước xanh xanh một vẻ
Khen hoá công
khéo vẽ nên đồ
Một năm được
mấy mùa thu.
Lão
nói:
- Bài CẢNH ĐÔNG hôm trước đã chưng bày ra vườn với một
số thơ của các nhà danh sỹ khác rồi. Như vậy Vườn Hoa Thơ có đủ tứ thời hoa,
khách đến vườn muốn gì có sẵn nấy.
Thầy
Mai:
-
Theo ý tôi thì
trong vườn nên sắp xếp cho có thứ tự : Hoa đời Trần để theo hoa đời Trần, hoa
đời Lê để theo hoa đời Lê…., hoa Xuân để theo hoa Xuân, hoa đông để theo hoa
đông.., hoa nồng diệm để theo hoa nồng diệm, hoa thanh đạm để theo hoa thanh
đạm… Như thế người xem hoa dễ nhận thức dễ thưởng giám hơn.
Lão
thưa:
- Tổ chức như thế thì khoa học lắm. Nhưng trông có vẻ
“học đường" quá, nhìn vào Vườn Hoa
không khỏi có cảm giác nhìn một quyển sách vẽ những hình kỷ hà học chớ không
phải nhìn trăng vẽ bằng lời.
Nguyễn
Đồng:
- Nói chuyện thơ cũng như đi chơi rông, gặp chi nói nấy,
gặp đâu ghé đó, tuỳ ngộ tuỳ nghi. Như thế mới thú. Chớ sắp đặt trước, sắp xếp
cho ngay bờ thẳng lối, thì có khác gì làm việc biên khảo, sẽ không tránh khỏi
khô khan.
Nguyễn
Khắc Tuân:
- Điều đó để lão vườn nghiên cứu lại. Bây giờ nên trở
lại với hoa thơ. Xin hỏi lão vườn: mấy bài ca trù của Nguyễn Uy Viễn có phải ý
vị hơn mấy bài thơ thời Hồng Đức chăng?
- Hơn hẳn. Trong các bài, ý vị nhất là những câu thơ
chữ Hán. Tứ thật mới! Những câu ấy đều
là cổ thi. Trong Ca trù, tác giả thường mượn cổ thi làm khổ giữa, chớ ít khi tự
đặt lấy.
Thầy
Mai:
- Nguyễn Công Trứ là một đại gia văn chương. Tác phẩm còn
lưu thế chắc nhiều lắm?
Nguyễn
Đồng:
- Nhiều lắm. Đã có nhiều người sưu tập thành sách. Nhưng
tôi nhận thấy thơ của Nguyễn Công không hay bằng ca trù. Thơ thiên về lý trí,
vị khô, lời cứng, đọc không thích thú bằng ca trù.
Lão
biểu đồng và nói thêm:
- Về ca trù thì trước kia có Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Quát, sau này có Tản Đà. Theo chủ quan của lão thì ca trù của ba nhà này không
ai sánh kịp. Câu không có chữ dư mà du dương uyển chuyển. Văn lại có nhiều hình
ảnh nhưng vẫn giữ vẻ tự nhiên. Đó là những đặc điểm chung của ba nhà, nhưng mỗi
nhà có mỗi cốt cách riêng biệt. Chu Thần thì hào, Uy Viên thì tráng, Tản Đà thì
tao.
Nguyễn
Khắc Tuân cười hả hả:
- Lão Vườn chưa già mấy mà đã lẫn, nói đuôi quên đầu.
Khi nãy lão nói không thích ca trù, mà bây giờ lại vẽ rồng vẽ rắn cả mớ!
- Ông bạn lớn hơn lão có mấy tuổi mà đã nặng tai! Lão có
nói không thích đâu? Lão nói ít thích chứ. Tức là có thích song không thích
bằng thơ đó thôi.
Thầy
Mai đứng dậy vỗ vai họ Nguyễn:
Tơ lòng rút mãi
khôn cùng
Chiêng vàng
đã xế dặm hồng còn xa.
___________________________________________________________________
(1) Bào Hy :
Vua Phục Hy, 1 thánh quân thời Tiền Sử, sống gần bốn nghìn rưỡi năm trước Kỷ
Nguyên Thiên Chúa. Thuỷ tổ Kinh Dịch.
Vua
Phục Hy khởi xướng đạo Dịch. Vua Hạ Vũ bổ khuyết. Vua Văn Vương và Châu Công
Đán nhà Châu diễn giải. Khổng Tử khai triển và phát huy, làm thành bộ Kinh Dịch
là bộ sách triết học của nho giáo bàn về vũ trụ và nhân sinh.
Nguyên
Hanh: chữ trong Kinh Dịch.
Nguyên,
hanh, lợi, trinh là bốn đức lớn của trời đất, vạn vật nhờ đó mà sinh thành.
(2) Khang phụ: Tốt lành, dồi dào, đầy dẫy.
(3) Chữ mượn trong bài ca Nam Phong của vua Thuấn và bài
ca của Cao Dao khen ngợi vua Thuấn:
- Nam Phong
chi huân hề
Khả dĩ giải
ngô dân chi uẩn hề.
Nam phong chi
thời hề,
Khả dĩ phụ
ngô dân chi tài hề.
(Đế
Thuấn)
Nghĩa
là:
Gió Nam ấm áp
vô ngần
Dân ta trăm
mối giận buồn đều nguôi
Gió nam thổi
đến phỉa thời
Dân ta của
cải gấp mười lần thêm.
- Nguyên thủ
minh tai
Cổ quăng
khương tai
Thứ sự cương
tai.
(Cao
Dao)
Nghĩa
là:
Đầu não sáng
suốt
Tay chân tốt
lành
Ngàn việc
muôn việc
Nối nhau hoàn thành.
(4) Xem
thêm: Lữ Đường Thi Trích dịch và Những Bức Thư Thơ.
(5) Tác phẩm
của Nguyễn Công Trứ.
(a)
Chúc Dung là
thuần hoả
(b)
Nơi bờ ao trưa
ông Chúc lớn lên một cách lặng lẽ.
(c)
Ven hàng rào hoa
chị hoa em cùng nhau nở một lượt
(d)
Huy hoàng: Phục
Hy Hoàng Đế.
Ống lữ:
Đồ dùng để thẩm xét thanh âm.
(6)
Liễu đã lấy lại màu xanh cũ, chim
oanh còn nín.
Đào mới thử màu hồng tươi, còn bướm
chửa hay.
(7)
Hoa hú: Khí hậu ấm áp.
(8)
Ngàn Hống: dãy Hồng Lĩnh tục gọi là Ngàn
Hống.
(9) Mưa
lạnh như tơ, trùng dệt đêm.
Trời
tạnh làm giấy, nhạn viết chữ trên không.