1.
Vương Anh Lạc từ Bình Khê vào Nha Trang tặng lão vườn
mấy khóm hoa thơ tự tay vun quén. Lão lựa được một khóm đủ hương đủ sắc đem
chưng nơi vườn thơ:
THỀM HOANG
Ngọc anh nở
mấy mùa
Người đi đã
về chưa
Hương lạnh
tình ong bướm
Chim vàng
nương bóng trưa
Đoạn cùng Vương ngồi dưới gốc mận đơm hoa trò chuyện.
Chợt Nguyễn Kính Sơn và Diệp Hà Giao ở Dalat về Qui Nhơn ghé lại thăm vườn. Lão
giới thiệu tác giả Thềm Hoang. Diệp quân thấy bài thơ là thơ ngũ ngôn tứ tuyệt
và tác giả là một thanh niên tuổi mới lớn “bách niên bán diệt bán”, tỏ ý xem
thường:
-
Mới tập làm thơ
nên làm thơ ngăn ngắn như thế, đã khỏi bị túng chữ lại khỏi bị khổ cực vì sự
đối ngẫu khó khăn .
Vương Anh Lạc bị chạm tự ái, song vì nghĩ câu “kính
lão đắc thọ” nên ngồi lặng thinh. Lão cười:
-
Đó là một mối lầm
be bé của những người chưa sống với thơ. Lão xin hỏi ông bạn: Một bát trà Huế
và một cốc trà Liên, bên nào có giá trị hơn bên nào? Và nấu trà Huế và chế trà
liên, bên nào khó hơn bên nào?
Diệp quân biết rằng lão chiếu bí, cười:
- Hỏi tức là đáp. Như vậy theo lão vườn thì làm thơ tứ
tuyệt khó hơn thơ bát cú?
-
Đối với người
khác thì khó dễ thế nào lão không dám biết. Còn đối với lão thì tứ tuyệt khó
hơn bát cú nhiều. Đối chọi không phải là việc khó đối với những người đã lành
nghề. Lựa chữ chuốt lời cũng không phải là việc khó dưỡng thần. Tuyệt cú chỉ có
một nửa thể tích của bát cú, nhưng vẫn phải chứa đựng. Lại còn phải làm sao cho
khí thơ mạnh mẽ liền lạc, thần thơ sáng mà không loà. Khiến cho không khí bài
thơ được điều hoà, nội dung bài thơ được sung thiệm.
Nguyễn quân biểu đồng ý kiến của lão, và tiếp:
-
Thơ tứ tuyệt lời
bình dị mà ý hàm súc. Cổ nhân bảo rằng đó là phần kết tinh của thơ. Chỗ tinh
diệu chỉ có thể ý hội chớ không thể ngôn truyền. Và vì khó làm nên trong số thơ
truyền tụng, từ đời Trần đến nay, thơ tuyệt cú không có mấy, không có mấy bài
được như sao hôm sao mai.
Lão nói:
-
Thể tứ tuyệt chỉ
thích hợp với những tâm hồn tế nhị thanh tịnh như các thiền sư Lý Trần, hoặc
hoa lệ phong phú nhưng đã từng được tiết chế như các thi nhân Đường Tống. Thơ
tuyệt cú của Lý Trần Đường Tống, hầu hết là những viên minh châu, từ xưa đến
nay không mấy ai phủ nhận gía trị, nhưng cũng chưa mấy ai nói cho rành mạch
những cái hay cái đẹp của thơ. Quả như lời bạn Kính Sơn đã nói, chỗ tinh diệu
chỉ có thể nhận hiểu bằng thần ý chớ không thể diễn thuật bằng lời.
Diệp quân hỏi vặn:
-
Chẳng lẽ thơ quốc
âm không có bài nào đáng kể sao?
Lão đáp:
-
Có, nhưng có ít
chớ sao lại không. Song thơ xưa thì lão chưa có duyên được thưởng thức, còn thơ
nay thì ngũ tuyệt lão thích bài TÌNH QUÊ của Kiến Đạo, thất tuyệt lão thích bài
MỘT NỬA TRĂNG của Hàn Mặc Tử:
TÌNH QUÊ
Thu về mai nở
gấp
Trùng cửu nảy
chồi xanh
Tết đến xuân
đi trớt
Đồng quê bát
ngát tình.
MỘT NỬA TRĂNG
Hôm nay có
một nửa trăng thôi
Một nửa trăng
ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình
xa thương đứt ruột
Gió làm nên
tội buổi chia phôi.
Mỗi lần đọc đến hai bài này, lão đều phải đọc tiếp câu
thơ VỊNH CÚC của Hoà Thượng Thích Viên Thành ở Huế:
Bình sanh
ngạo cốt lăng tằng thậm
Mỗi đáo đê
đầu chỉ vị khanh.
Nghĩa là:
Bình sanh
tánh vốn ngang tàng
Nghiêng đầu
xuống thấp vì nàng đó thôi.
Kính Sơn cười hả hả:
-
Hoà Thượng Thích
Viên Thành đã đa tình, lão giữ Vườn lại còn đa tình gấp bội. Chữ KHANH của
nguyên tác nghĩa rộng. Chữ NÀNG trong dịch văn làm nổi bật tánh yêu hoa của
khách ngạo cốt lăng tằng.
Vương Anh Lạc, từ đầu câu chuyện, thủ phận “đồng tử
tạo ngung”. Đến khi nghe Nguyễn Kính Sơn bình luận, thì tình dù đượm đến đâu
cũng không bền bỉ. Mà tình của thi nhân vừa đa lại vừa chung. Cho nên khi đã chịu
“nghiêng đầu xuống thấp” thì lòng yêu, kính đã trộn lẫn thành một chất rượu
kinh niên.
Diệp Hà Giao nhìn lão:
-
Lão Vườn đã chịu
“đê đầu” trước Tình Quê và Một Nửa Trăng, mà lại tuyển thủ Thềm Hoang cho Vườn
Hoa Thơ. Như thế có phải ngụ ý rằng Thềm Hoang không thua Tình Quê và Một Nửa
Trăng, hoặc dụng ý rằng kẻ hậu sanh sẽ theo kịp hai bậc tiền bối?
-
Khi lão chọn Thềm
Hoang thì hai bài kia nằm sâu trong ký ức và chỉ xuất đầu lộ diện khi hầu
chuyện cùng hai lão hữu mà thôi. Như vậy thì không hề có sự so sánh. Đó là điểm
thứ nhất. Còn điểm thứ hai thì tất cả mọi người lo tu thân không phải ai cũng
có thể trở nên hiền nên thánh. Song những kẻ đã giốc lòng lập đức thì đều phải
lấy hiền thánh mà tự kỳ. Như vậy, cầu mong kẻ hậu sinh theo kịp hàng tiền bối
chẳng phải chính đáng lắm sao?
Diệp quân cười:
-
Sắm được một lão
giữ vườn lão khẩu, thì “viên thể” ít khi bị nhục, và khách đến thăm vườn chẳng
những được sướng mắt sướng mũi mà còn được sướng tai. Mình khen cho đó.
Một trận gió nồm thổi râu mận bay phơi phới như mưa
tuyết và nhuộm trắng cả mái đầu chủ khách, không còn phân biệt ai trẻ ai già.
Ai nấy đều cười thoải mái.
Kính Sơn ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
-
Bài Thềm Hoang
đọc đi đọc lại thấy gồm đủ thanh sắc vị. Nhưng kiến trúc chưa được vững. Dường
như bị thiếu một yếu tố nào đó, nhưng tôi tìm mãi không ra.
Hà Giao vụt đáp:
-
Câu thứ nhì bị
thất luật. Chữ thứ hai câu ấy phải là tiếng trắc vì chữ thứ hai câu trên là
tiếng bằng. Thơ không theo đúng luật bằng trắc thì đọc không êm. Đó là lẽ
thường chớ có gì lạ đâu mà phải mất công tìm kiếm.
Biết rằng ông bạn là một tay cử nghiệp keo sơn cùng
nguyên tắc của trường thi. Để có thể đánh ngã tánh cố chấp kinh niên, lão phải
bài binh bố trận chặt chẽ:
-
Tay nhà nghề có
khác. Quả như lời các bà lão thường nói: “Con ruồi bay qua, biết ngay là đực là
cái”. Song ông bạn quên rằng thơ tuyệt cú, cũng như các loại thơ khác, đã thịnh
hành từ các đời Hán, Nguỵ, Lục Triều. Đến đời Đường thanh vận mới hoà hiệp mà
đặt ra Luật Thơ. Người đời Đường đặt ra Luật thơ sau bao nhiêu kinh nghiệm rút
được nơi người xưa và nơi bản thân. Đặt ra để điều khiển thi hứng tới lui đi
đứng được uyển chuyển điều hoà, không thái quá cũng không bất cập. Chẳng khác
cương vế điều khiển con tuấn mã tế kiệu cho đều đặn nhịp nhàng, tấn thối cho
đúng đường đúng lúc. Tức là đặt ra Luật thơ cốt giúp cho thi nhân những phương
tiện ổn định để diễn đạt ý thơ cho được hoàn hảo, giúp cho nghệ thuật đi đến
mức linh diệu tinh vi. Nhưng đã gọi là phương tiện thì giá trị chỉ tương đối
chớ không phải tuyệt đối, không phải bất khả xâm phạm như hiến pháp một quốc
gia có cương kỷ. Bởi vậy cách áp dụng phải linh động. Nhiều khi, để tránh cái
hoạ hình thức làm hại nội dung, thi nhân có quyền nới rộng khuôn khổ lề lối,
hoặc vứt bỏ hẳn luật lệ như người bơi qua sông nước chảy mạnh phải vứt bỏ xiêm
y. Hy sinh quy tắc để giữ trọn thi hứng, chính người đời Đường là đời đặt ra
Luật thơ, vẫn thường thực hiện. Như Lý Thái Bạch, Thôi Hiệu, Tống Chi vấn.
Những bài phá luật như Đăng Hoàng Hạc lâu của Thôi, Anh Vũ Châu của Lý, Tâm
Dương Cung Thanh, Tôn Huyền thị Yến của Tống, đều là những giai phẩm được lưu
truyền. Về thơ Ngũ Tuyệt, vì ít chữ ít câu, đáng lẽ hình thức trang nghiêm của
Luật Đường phải được tuân thủ triệt để. Thế mà niêm luật lại được nới rộng hơn
thơ Thất Ngôn, nếu không có tên tác giả đi kèm thì người đọc có thể lầm là thơ
cổ:
DỊCH THUỶ TỐNG BIỆT (1)
Thử địa biệt
Yên Đan
Tráng sỹ phát
xung quan
Tích thời
nhân dĩ một
Kim nhật thuỷ
do hàn
Lạc Tân Vương
Nghĩa là:
Nơi nầy biệt
Yên Đan
Tóc tráng sỹ
dựng ngược
Người xưa dẫu
không còn
Nước vẫn còn
lạnh buốt
TĨNH DẠ TỨ
Sàng tiền
khán nguyệt quang
Nghi thị địa
thượng sương
Cử đầu vọng
minh nguyệt
Đê đầu tư cố
hương.
Tạm dịch:
Ánh nguyệt
rọi bên giường
Lòng ngờ đất
toả sương
Ngẩng đầu
trông nguyệt rạng
Cúi đầu nhớ
cố hương.
DẠ VŨ
Tảo trập đề
phục yết
Tàn đăng diệt
hựu minh
Cách song tri
dạ vũ
Ba tiêu tiên
hữu thanh.
(Bạch
Cư Dị)
Tạm dịch:
Dế dum kêu
mỏi lại ngừng
Hoa đèn đã
lụn vụt bừng sáng thêm
Ngoài song
biết có mưa đêm
Giọt tiêu
tích tách qua rèm tiếng đưa
Thơ ngũ tuyệt đời Đường mà lão được đọc, đa số là thơ
phá luật. Phá luật song không làm tổn hại đến phép làm thơ. Như những bài
thượng dẫn. Để thêm vui, xin lục thêm một bài thất tuyệt phá luật của Đường
Nhân:
MANG SƠN
Bắc Mang sơn
hạ liệt phần doanh
Vạn cổ thiên
thu đối Lạc thành
Thành trung
nhật tịch ca chung khởi
Thử sơn duy
văn tùng bách thanh
(Thẩm
Thuyên Kỳ)
Tạm dịch:
Dưới Bắc Mang
sơn mả sắp hàng
Lạc thành
muôn thuở mặt trông sang
Trong thành
hôm sớm chuông ca rộn
Tùng bá trên
non tiếng dịu dàng.
Phá luật mà câu thơ không gập ghềnh, mạch thơ vẫn liền
lạc, nhạc thơ vẫn điều hoà, không phải là việc dễ. Và xem các bài thơ thượng
dẫn, hai ông bạn có cảm thấy hoặc nhận thấy thiếu “một cái gì” làm cho kiến
trúc bài thơ không được vững chắc như khi đọc bài Thềm Hoang của Vương Anh Lạc
không? Chắc là không. Đó không phải vì bị uy danh của các tác giả làm mờ tâm
trí, mà chính vì bút pháp của cổ nhân đã đến mức tinh luyện, tinh luyện tới độ
trở thành tự nhiên như nói cười đi đứng, tự nhiên như bốn chân ngựa đã thuần
thục, đi đường núi cũng vững như đi
đường bằng.
Hà Giao ngồi làm thinh. Kính Sơn nói:
-
Giải thích rõ
ràng. Tôi công nhận bài Thềm Hoang không phải vì không theo đúng niêm luật mà
trở nên lỏng lẻo. Nhưng mặc dù cố dựa theo lời giải thích của lão vườn để tìm
lấy khuyết điểm mà vẫn không tìm ra.
Lão đưa mắt nhìn Hà Giao. Hà Giao nguýt:
-
Ai lão khẩu thì
thuyết trình chớ đây vô phận sự.
Lão nói:
-
Bài thơ ngó lỏng
lẻo là vì thiếu chỗ tựa. Lạc Tân Vương lấy THỬ ĐỊA làm chỗ tựa. Lý Thái bạch lấy SÀNG làm chỗ tựa . Bạch Cư
Dị lấy SONG làm chỗ tựa. Thẩm Thuyên Kỳ lấy MANG SƠN làm chỗ tựa. Còn chỗ tựa
trong bài Thềm Hoang là đâu để cho hoa cho người cho hương cho chim qui tụ?
Thật chẳng khác một giáo hội mà không có trụ sở: Tín đồ dù đông mấy cũng không
thể vững mạnh, bỡi thiếu sự sinh hoạt cộng đồng.
Kính Sơn biểu đồng:
-
Vậy nên cất cho
tình ý bài Thềm Hoang một trụ sở để có nơi tương ỷ tương y.
-
Đất không còn chỗ
trống. Nếu muốn có chỗ tựa thì phải hy sinh một ngôi nhà nào thấy không cần
thiết. Trong câu “Hương lạnh tình ong bướm”. Chữ HƯƠNG thật đẹp. Song bỏ đi, ý
thơ vẫn không bị sút giảm bởi đã có hoa Ngọc Anh nở mấy mùa. Cho nên lão đề
nghị bỏ chữ HƯƠNG để thay chữ THỀM vào làm trụ sở.
Ngọc anh nở
mấy mùa
Người đi đã
về chưa
Thềm lạnh
tình ong bướm
Chim vàng
nương bóng trưa.
Hà Giao đứng dậy:
-
Hảo tai! Hảo Tai!
Trụ sở cất rồi, chúng ra nên giải tán.
2.
Được lão chỉ dùm chỗ khuyết trong bài Thềm Hoang,
Vương Anh Lạc cao hứng về Bịnh Định rủ ba chú trẻ nữa vào thăm lão:
-
Huỳnh Phú Thọ
-
Tạ Hữu Giang
-
Lý Như Hải
Lão hỏi:
-
Có hoa thơ cho vườn
chăng?
Vương Anh Lạc:
-
Hôm trước đánh
liều… Từ hôm ấy mới biết rằng cháu đã lầm tưởng thơ không cần học.
Lý Như Hải:
- Chính chúng
cháu cũng đều lầm như thế. Đó không phải vì dốt nát mà lầm. Chính do đọc sách
mà lầm. Chúng cháu đã đọc sách thấy nói rằng văn sỹ Caldwell của Mỹ, một văn sỹ
nổi tiếng khắp thế giới, không hề đọc ai cả. Chúng cháu nghĩ không đọc ai cả
tức là không học. Không học mà vẫn giỏi thì muốn trở thành thi sỹ cần chi phải
học. Cứ lo làm thơ cho nhiều thì thơ sẽ hay.
Huỳnh Phú Thọ:
-
Lại có đôi nhà
văn nói: Đọc sách nhiều, khi viết sẽ bị ảnh hưởng của người xưa, không sáng tạo
được gì mới mẻ.
Tạ Hữu Giang:
- Cũng có người
nói: Người viết nhiều thì không đọc, người đọc nhiều thì không viết, bởi đọc
nhiều tưởng người trước đã viết hết rồi, mình có viết nữa cũng chỉ lặp lại một
cách vô vị những ý kiến những tư tưởng của cổ nhân. Chúng cháu đều là những
người ưng viết, nên nghe sách nói, người sanh trước nói, thành ra khinh thường
việc học hỏi. Sau khi anh Lạc về nói chuyện lại cuộc thâm kiến lão vườn, chúng
cháu tỉnh ngộ. Nên vào kính xin lão vườn chỉ điểm cho những điều thiệt hơn.
Nhận thấy những lời của mấy ông khách trẻ đều là lời
chân thành, lão ôn tồn đáp từng điểm một:
- Ở đời có ba
thứ biết: Không học mà biết, cổ nhân gọi là sanh nhi tri; Nhờ học mà biết, cổ
nhân gọi là học nhi tri; nhờ gặp những bước khốn cùng mà biết, cổ nhân gọi là
khổn nhi tri, tức là nhờ lịch duyệt mà biết. Biết làm thơ cũng thế. Nhà văn
Calwell là sanh nhi tri. Những bậc thiên tài như thế đâu có nhiều. Hầu hết
những nhà thơ nổi danh xưa nay đều nhờ công học hỏi, rèn luyện mà thành tài.
Bảo rằng đọc sách nhiều sẽ bị ảnh hưởng sách, không
thể sáng tác được gì mới mẻ, điều đó không phải là không có. Như Âu Dương Tu
học thơ của Hàn Dũ thì hay phỏng theo Hàn Dũ. Tô Đông Pha hễ học Lý Bạch thì
phỏng theo Lý Bạch, học Đỗ Phủ thì theo Đỗ Phủ… Nhưng đó là lúc còn thanh niên.
Chớ đến khi trưởng thành thì tự xuất tân ý tạo thành nhất gia cơ trử, danh sáng
không nhượng các bậc bổn sư. Mới học ai lại không bắt chước thầy. Như con gà
con thì phải theo mẹ, phải cần có mẹ bươn chải tìm mồi cho ăn, ấp ủ để tránh
mưa gió, song đến khi đủ lông đủ cánh thì phải tự lực cánh sinh. Vật kia còn
thế huống hồ kẻ học làm thơ… Người học cũng như cây, sách vở thầy học cũng như
núi. Một khi đã đâm rễ vào núi, thì chồi nảy sanh…, mỗi ngày một thêm cao lớn,
tàn xanh hoa thắm che lắp sắc núi, vượt cao hơn núi. Đứng ngoài mà nhìn nào ai
có thấy núi, mà chỉ thấy lá và hoa của cây. Như thế học có hại cho việc sáng
tác ở chỗ nào?
Còn nói học nhiều sợ viết nữa sẽ bị lặp lại những ý
kiến những tư tưởng của cổ nhân. Theo lão dù có lặp lại cũng không hề gì. Bởi
những lời dạy của cổ nhân chắc chi ai nấy cũng đã được nghe, chắc chi những
người được nghe ai nấy cũng đều thấu đáo… Chúng ta đây đều là Phật tử, thử xem
những lời đức Phật dạy, đã được các nhà thông thái lặp đi lặp lại không biết
bao nhiêu lần, mà đã ai hiểu hết chưa, ai đã nhớ hết chưa, đã ai thấy những lời
lặp đi lặp lại đó trở thành vô vị vô bổ chưa? Ví dụ như Na Tiên Tỳ Kheo Kinh là
một bộ kinh phản ánh những đường nét chính yếu của Giáo lý nguyên thuỷ. Thế mà
trên dưới hai mươi thế kỷ nay đều được tán thán là đặc sắc. Đặc sắc ở điểm ngài
Na Tiên đã dùng những tỷ dụ do ngài sáng chế để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo
lý của Phật Giáo Nguyên Thuỷ. Mới hay cũ là ở cách nói nhiều hơn là ở lý tưởng.
Biết cách nói thì cũ cũng trở thành mới. Không biết cách nói thì mới cũng trở
thành cũ. Bởi trong thế gian nầy những cái gọi là mới chỉ là những cái cũ đã bị
vùi lấp quên lãng lâu ngày, được tìm thấy lại và chùi rửa sạch bụi thời gian đó
thôi.
Đến điểm “Người viết nhiều thì không đọc. Người đọc
nhiều thì không viết”, theo lão, có nghĩa như thế này:
-
Người không đọc
sách cũng như Hà Bá sông Hoàng Hà chưa xuống biển đông, tưởng sông mình nước nhiều
nhất vũ trụ. Tự thấy mình là lớn là hay chữ, ưng làm thầy thiên hạ, nên viết
sách để dạy đời. Còn những người đọc nhiều, tự thấy mình không đủ sức để khai
triển để phát huy những cái hay cái đẹp của cổ nhân, có viết nữa chẳng qua chỉ
nhai lại những cái cũ; sách mình ra đời chỉ là một bản trùng tuyên vô vị vô bổ,
không đáng làm hao giấy mực của đời. Một bên thì tự thị tự đắc. Một bên thì tự
ty hoặc tự trọng.
Lý Hải Như: - Hai hạng người ấy ở Việt Nam có nhiều
chăng?
-
Lão không thể
biết, vì chưa ai làm bảng thống kê.
Tạ Hữu Giang: - Xin lão vườn cho chúng cháu được biết
để theo: Khi mới học làm thơ và khi đã biết làm thơ rồi, Lão Vườn đã đọc những
sách nào?
-
Ban đầu chỉ đọc
quyển Quốc Văn Trích Diễm của Giáo sư Dương Quảng Hàm. Đó là quyển sách bằng
quốc âm duy nhất dạy cách làm thơ mà lão được đọc, lúc còn ở trường. Sau khi ra
trường thì được đọc toàn sách chữ Hán và chữ
Pháp.
Huỳnh Phú Thọ có vẻ ngạc nhiên:
-
Lão Vườn chuyên
về thơ Đường Luật mà sao lại học sách dạy thơ bằng chữ Pháp? Không lẽ thơ của
Pháp cũng có thơ Đường Luật?
-
Lão học là học
thi pháp. Còn niêm luật của thơ Đường Luật thì nội quyển Quốc Văn Trích Diễm
cũng đã tạm đủ rồi.
Vương Anh Lạc: - Niêm luật không phải thi pháp sao?
-
Là một điểm trong
thi pháp và chỉ luật Thơ Đường mới áp dụng chặt chẽ. Thi Pháp rộng như biển.
Còn niêm luật chỉ là một chum nước thôi.
Nhận thấy mấy chú trẻ không tin lời nói của lão, song
không dám nói ra, lão cười:
-
Những người chưa
thạo thơ Đường luật hoặc mới học làm thơ Đường luật đều cho niêm luật là khó là
bó buộc. Nhưng người đã lành nghề thì cho là trò chơi, không chút bận tâm. Đó
cũng do các sách dạy thơ giảng không có khoa học nên khó nhớ. Khi lão mới học,
lão phải học thuộc lòng:
Bằng bằng trắc trắc trắc bằng vần.
Trắc trắc bằng bằng bằng trăc trăc vần
Trăc trăc bằng bằng bằng trăc trăc
Bằng bằng trăc trăc bằng bằng vần …
Bằng bằng trăc trăc bằng bằng trăc
Trắc trắc bằng bằng trắc trắc vần
Trắc trắc bằng bằng bằng trắc trắc
Bằng bằng trắc trắc trắc bằng vần.
Đó là thể bằng. Còn thể trắc thì câu đầu phải khởi sự
bằng hai tiếng trắc… Cứ vậy mà học thuộc.. khi quen tay quen miệng rồi thì “bằng
trắc tùng tâm sở dục”. Hễ sai một chữ là biết ngay. Chừng đó lão mới tìm thấy
một phương pháp làm cho kẻ mới học thơ dễ nhớ hơn phương pháp học thuộc lòng “bản
hiến chương” kia.
Mấy chú trẻ đồng reo:
-
Lão Vườn vui lòng
truyền cho chúng cháu.
-
Theo bản bằng
trắc “tiền chế” đó, thì câu một bằng trắc giống câu 8, câu 2 giống câu 3, câu 4
giống câu 5, câu 6 giống câu 7. Ngoại trừ chữ cuối ở mỗi câu. Bởi chữ cuối của
câu 1 và 4 câu chẵn để dành cho vần của
bài thơ. Hễ vần ở câu chẵn là tiếng bằng thì chữ thứ bảy của câu lẻ phải tiếng
trắc, và trái lại. Đó là niêm.
Niêm tức là dính lại với nhau, ăn khớp với nhau. Niêm
thuộc về câu. Còn luật thuộc về chữ trong mỗi câu. Trong mỗi câu thì chữ thứ
nhất, chữ thứ ba và chữ thứ năm, không cần theo đúng bằng trắc. Chỉ có chữ thứ
hai chữ thứ bốn và chữ thứ sáu, bằng trắc không được sai với bản “ bản phong
thần” mà thôi.
Cổ nhân gọi là “Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân
minh”. Thế là mỗi câu chỉ còn có ba chữ
phải theo đúng luật bằng trắc. Ba chữ đó gọi là ba “phần tử tiết điệu”. Chúng
theo thế quân bình tam phân: hai phần tử ở hai đầu, tức là chữ thứ hai và chữ
thứ 6, đối lập cùng chữ ở chính giữa, tức là chữ thứ 4. Nếu chữ thứ 4 là tiếng
trắc thì chữ thứ hai và chữ thứ 6 phải là tiếng bằng. Nếu chữ thứ 4 là tiếng
bằng thì chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải là tiếng trắc. Nói một cách nôm na: chữ
thứ 2 và thứ 6 kẹp cỗ chữ thứ 4. Hoặc 2 bằng kẹp cổ trắc, hoặc 2 trắc kẹp cổ
bằng.
Bây giờ nói đến Niêm: Cổ nhân bày ra niêm là cốt để
cho không khí bài thơ được điều hoà, để cho câu trên câu dưới khỏi “cãi cọ”
nhau. Ví như bốn cặp vợ chồng nằm chung trên một chiếc giường, phải làm sao để
tránh sự nghi kỵ, sự phân bì…., để khỏi
mích lòng nhau mà sanh ra bất hoà bất thuận.
Nếu sắp đàn ông tức là câu trống, một phía, đàn bà tức
là câu mái, một phía, thì chính giữa trống mái, phải có một vách ngăn, hoặc một
chiếc gối to và dài làm ranh giới, hầu tránh sự lộn xộn lúc tắt lửa tối đèn.
Giường vừa đủ 8 người nằm, nếu thêm vách thêm gối vào nữa thì thiếu chỗ. Huống
nữa làm như thế sẽ mang tiếng chia rẽ bắc nam. Mà Niêm bày ra là để cho sự đoàn
kết giữa câu này và câu kia được mười phần chặt chẽ…
Vương Anh Lạc:
-
Thì cứ sắp cặp vợ
chồng nào nằm theo cặp vợ chồng nấy.
-
Đúng. Nhưng phải
sắp cách nào cho ổn? Nếu cứ sắp chồng đâu vợ đó, như thế này:
Chồng *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Chồng *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Chồng *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Chồng *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Thì trừ hai người nằm ở hai đầu được tự do day trở,
còn những người nằm giữa thì chỉ được nằm ngửa hoặc day mặt vào người bạn trăm
năm của mình mà thôi. Bởi nếu làm khác đi thì hoặc ít hoặc nhiều, không sao
tránh khỏi sự ngờ vực… bởi thế, vẫn giữ nguyên tắc “chồng đâu vợ đó” cổ nhân
xếp đặt một cách hợp tình hợp lý hơn:
Chồng *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Chồng *------------------*--------------------*
Chồng *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Vợ *------------------*--------------------*
Chồng *------------------*--------------------*
Như thế ai
nấy đều được tự do day trở. Trở nghiêng bên này thì gặp bạn trăm năm, tạo nên cảnh
loan phụng hoà bình. Day sang bên kia thì gặp bạn đồng giới, tránh hẳn lẽ âm
dương tương khắc. Ai nấy đều ngủ yên. Bài thơ khỏi bị “lủng củng nội bộ” (2)
Mấy chú trẻ khoái ý vỗ tay reo:
-
Chúng cháu nhận
thức đầy đủ rồi. Chúng cháu sẽ tập làm thơ Đường Luật.
-
Ý đừng! Ý đừng!
Nói ra cốt để cho các chú em thấy rằng thơ Đường luật khó, mà không khó. Không
khó ở niêm luật, đối, bệnh…, tức là hình thức, mà khó cũng như các thể thơ
khác, ở cách diễn đạt tình, lý cảnh, sự cho được trung thực, cho được linh
động, cho được tự nhiên…, tức là khó ở chỗ làm như thế nào để cho nghệ thuật
được vận dụng, tận dụng, diệu dụng, hầu phục vụ nội dung được hữu hiệu, được
đến mức hoàn toàn.
Lý Như Hải: - Tại sao lại không nên học thơ Đường luật,
nếu quả hình thức không làm hại nội dung?
-
Làm hại nội dung
là do tài bất cập. Với hình thức nào mà tài bất cập đều không diễn đạt được
những gì mình muốn diễn đạt, chớ không riêng gì với thể thơ Đường.
Huỳnh Phú Thọ: - Như vậy chỉ cần luyện tài chớ không
cần chọn thể?
-
Cũng cần lắm. Vì
nội dung và hình thức phải ăn nhịp với nhau thì thơ mới hoàn hảo. Như người Mỹ,
người Phi… mà mặc áo đen dài bịt khăn đóng, thì coi không được. Những trang y
của các giai nhân ngày xưa mà chúng ta thấy ở trong phim chiếu bóng Trung Quốc,
thật đẹp đẽ biết bao. Thế mà Mao Trạch Đông, Tưởng Giới Thạch có còn dùng cho
giới phụ nữ Trung Hoa nữa chăng? Kiểu nhà chữ Môn, đâu phải là không mỹ thuật,
nhưng trừ những chùa chiền miếu mạo, có nhà giàu sang nào dùng để xây cất biệt thự
trong những nơi đô hội phồn hoa? Thể thơ Đường luật cũng thế. Phải để cho “đương
sự” nằm yên trong dĩ vãng. Những ông già bà cả phải chết đi, thì người đời mới
thương tiếc, chớ cứ sống mãi thì chỉ làm cho người thân yêu giảm lần hết cảm
tình.
Tạ Hữu Giang: - Thế sao lão vườn vẫn giữ thể thơ Đường luật?
-
Đó là do “tập dữ
tánh thành”. Răng đã nhuộm đen rồi, mỗi ngày xỉa thuốc cho đen thêm, hoặc cho
khỏi tróc khỏi lợt, chớ không nên theo thời thượng lấy nước cường toan đánh cho
trắng. Bởi đã không thể nào trắng được, mà còn xam xám rai rái trông hết sức
khó coi. Các chú em đương trắng răng, sao lại muốn ra chợ Đông Ba mua thuốc
xỉa?
Vương Anh Lạc: - Không nên tập, nhưng phải biết. Biết
để dễ thưởng thức những bài thơ Đường luật của cổ nhân còn lưu thế. Xin Lão
Vườn cho biết thêm về niêm luật của Ngũ ngôn.
-
Niêm của Ngũ Ngôn
không khác Thất Ngôn, còn luật thì giản tiện hơn, bởi số chữ ít. Cũng như thơ Thất Ngôn, Ngũ Ngôn luật thi
luôn luôn dùng cước vận và cách vận. Và vận nằm ở câu thứ nhất cùng ở các câu
chẵn. (Câu thứ nhất của thơ Ngũ Ngôn nhiều khi không cần bỏ vận). Như thế câu
thơ chỉ còn có 4 chữ, mà chữ thứ nhất và chữ thứ ba bằng trắc không cần theo
đúng luật. Chỉ có chữ thứ 2 và chữ thứ 4, bằng trắc phải phân minh thôi. Chữ
thứ 2 và chữ thứ 4 là 2 phần tiết diệu. Hai phần tử ấy đối lập với nhau: Hễ chữ
thứ 2 là tiếng bằng thì chữ thứ 4 phải là tiếng trắc. Còn chữ thứ 2 tiếng trắc
thì chữ thứ 4 phải là tiếng bằng. Đó là thế quân bình song lập.
Như bài Thềm Hoang của chú em, câu thứ nhì luật sai
niêm cũng sai. Để cho đúng niêm luật thì phải đổi:
Người đã đi
về chưa
Nhưng đúng niêm luật để làm gì nếu ý thơ bị phản? Còn
sai niêm luật mà ý thơ không bị phản, nhạc thơ không bị lệch, không khí bài thơ
không bị “ nóng lạnh cách biệt thái quá”, thì chẳng những không bị phạt mà còn
được thưởng. Bởi không theo con đường đã vạch sẵn, mà đi đúng phương hướng, đi
không bị vấp ngã. Như thế chẳng đáng khen lắm sao?
Vương Anh Lạc:
- Đó là ngẫu
nhiên mà được, chứ không phải do nghệ thuật cao. Cho nên sai không biết, được
cũng không biết. Lão Vườn nhìn vào thấy ngay ưu khuyết. Được vậy là nhờ có học,
nhờ học nhiều… Cho nên chúng cháu xin nguyện ráng học…
- Học rồi phải
suy tư để cho những gì học được có thể tiêu hoá, và phải tập để cho tri đi đôi
với hành. Khách làm thơ cũng như người cán bộ chính trị, phải dùng lý thuyết để
thực hiện công tác cho đúng chủ trương đường lối, và lấy công tác thực tiễn mà
bổ khuyết mà phong phú cho lý thuyết. Thi pháp không phải do người làm thơ bày
đặt ra, mà chính là những nguyên tắc đã rút được nơi các tác phẩm thành tựu.
Học cho nhiều mà không hành cũng không ích gì cho bản thân, còn làm việc mà
được mất do sự may rủi, chớ không do tài hay dở, học nhiều ít, thì kết quả kia
cũng không đáng kể. Chẳng những thế theo đúng nguyên tắc đã nắm được mà đi đến
chỗ thành công, nhưng không nhờ sự thành công kia mà rút thêm được những gì mới
lạ để phong phú nguyên tắc, cải tiến nguyên tắc, thì cũng chưa đúng với ý nghĩa
của sự học tập. Phải “nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” mới được… Nói thì
dễ mà làm rất khó… Lão luôn luôn cố gắng, nhưng vẫn chưa gặt hái được chút đỉnh
gì! Lão đặt niềm hy vọng ở đoàn hậu tiên…
Tạ Hữu Giang: - Chúng cháu lâu nay cố công đọc sách.
Song sách về thơ bằng Quốc âm rất hiếm. Còn chữ Hán và chữ Pháp, chúng cháu lại
không thông thạo. Cho nên muốn thực hiện những lời chỉ dạy của Lão Vườn, chúng
cháu không biết làm sao đây?
Lão chợt nhớ đến cách học của lão ngày xưa, học lúc
chưa gặp được thầy được sách:
- Đọc thơ cho
thật nhiều. Khi gặp được một bài thơ hay, thì phải xem kỹ “tại sao mà hay”. Câu
đặt như thế này, chữ dùng như thế này, điệu gióng như thế nầy, mạch chuyển như
thế nầy…, nên thơ hay. Nếu đổi khác hết, hoặc sửa đi đôi chút…, tình tứ trong
thơ, tinh thần bài thơ..., có đổi khác đi chăng, có kém sút đi chăng? Rồi rút
ra một nguyên tắc để áp dụng. Đó là kinh nghiệm bản thân. Và lão thu được ít
nhiều kết quả. Những kết quả ấy sau này lão đem đối chiếu với lời sách dạy,
không sai khác bao nhiêu. Các chú em thử tạm dùng thử..
___________________________________________________________________
(1) Kinh Kha đời Chiến Quốc, vâng lệnh Thái Tử Đan của nước sang giết vua Tần. Thái Tử đưa đến sông Dịch Thuỷ, Kinh Kha cảm khái hát: “Phong tiêu tiêu hề, Dịch Thuỷ hàn. Tráng sỹ nhất khứ hề, bất phục hoàn”. Hát rồi nộ khí xông lên đến nỗi tóc dựng đứng.
(2) Sáng kiến của Khương Hữu Dụng.