5.
Ông bạn già Định Phong gởi tặng vườn Hoa Thơ ba bài
ngũ luật:
CÔ NGÂM
Đôi vần hương
gói ghém
Ròng rã đợi
tri âm
Khói ráng tâm
tình trượng
Vườn nương
khí vị thâm
Vơi vơi sầu
viễn biệt
Lạnh lạnh thú
cô ngâm
Gối tỉnh canh
đồng vọng
Ngàn khơi
tiêu vỹ cầm
CHỨC PHỤ TỪ
Tơ thắm ngọn
đèn xanh
Hồi văn dệt
chửa thành
Lạnh lùng cây
trở bấc
Rộn rã bịp
giao canh
Má ngoẹn dòng
u hận
Tay phăn mối
viễn tình
Mở phong lòng
ải quạnh
Đầy đọng bóng
trăng thanh.
QUA ĐÒ GẶP NGƯỜI CŨ
Ba năm trời
xa xôi
Phong trần cam
lắm nỗi
Gặp nhau đành
thương nhau
Nhìn nhau
không nỡ hỏi
Nước lặng
dòng mây trôi
Tre nghiêng
bờ gió thổi
Rồi ngàn dâu
ngàn dương
Ngập ngừng
chuông điểm tối.
Lương Chu Phát, Hoàng Ninh Chữ và Vương Tri Thuỷ đến
thăm vườn, khen rằng lưu lệ mà thâm viễn.
Tri Thuỷ: - Trong làng thơ quốc âm xưa nay ít thấy thơ
ngũ luật. Tại sao?
-
Tại thơ ngũ ngôn
dễ mà khó. Dễ ở chỗ câu ngắn. Khó ở chỗ câu ngắn. Người biết rõ chỗ khó, e ngại
mà không dám làm. Người chỉ thấy chỗ dễ, xem khinh mà không thèm làm. Nhân chỗ
dễ mà vượt qua chỗ khó, không mấy người dụng công.
Đó là về phần người làm thơ.
Còn người xem thơ thì phần đông vì quen nghe tiếng tơ
tiếng trúc của thơ Thất Ngôn nên không thích nghe tiếng săng tiếng đá của Ngũ
Ngôn. Mà đời không có tri âm thì tiếng sanh tiếng khánh thỉnh thoảng mới gióng
lên trong nơi nước thẳm non sâu mà thôi.
Đã ít người làm lại không người truyền thì bảo thơ Ngũ
Ngôn có nhiều trong làng thơ thế nào được.
Lương Chu Phát: - Những gì hiếm cũng đều quí
-
Hoa lan hoa ly
hiếm mới quí chớ hoa chàng rành hoa cỏ chân vịt càng hiếm càng khỏi mất công
phá huỷ để khỏi vương vúi đến những danh hoa.
Hoàng Ninh Chữ: - Nói là nói về những thứ hoa có
hương có sắc, chớ ai nói đến những giống
kia mà làm chi. Nhưng hãy gác lại vấn đề “giá trị”. Mong Lão Vườn cho biết: Thơ
Ngũ Luật có trước hay thơ Thất Luật có trước?
-
Bên Việt Nam thì
lão không biết rõ, vì tự mình không đủ khả năng nghiên cứu, các sách văn học sử
hiện hành lại không thấy sách nào đề cập tới. Còn bên Trung Hoa thì, theo các
sách biên khảo mà lão đã được đọc, lịch trình tiến triển của Thơ như thế nầy :
Về các đời trước, thơ phần nhiều đều theo thể Tứ Ngôn.
Đến đời nhà Hán (206 tr. Tây lịch 195 sau C.N.) mới có thơ Ngũ Ngôn và Thất
Ngôn. Sang đời Nguỵ (196 -220) qua đời Lục Triều (221- 621) thể Ngũ Ngôn thịnh
hành, thể Thất Ngôn chỉ dùng trong nhạc phủ. Đến đời Đường (618 -907), thể Thất
Ngôn được thông dụng hơn thể Ngũ Ngôn.
Thơ đời Hán đời Nguỵ chỉ có vần chớ không có luật. Qua
đời Lục Triều (1), Lục Cơ và Phan Nhạc đời Tấn mở đầu cho lối thơ đối ngẫu.
Thầm Ước. Đời Tề xướng ra thuyết Tứ Thanh và Bát Thể tức bát bệnh của âm vận.
Sang đời Đường phép đối ngẫu và phép thanh bệnh được nghiên luyện tinh mật.
Thẩm Thuyên Kỳ và Tống Chi Vấn, sau khi khảo nghiệm cách điệu được ổn thuận,
mới định ra luật ngũ ngôn bát cú. Sau đó luật Thất Ngôn bát cú mới sản xuất.
Thơ làm theo luật gọi là thơ Cận Thể để phân biệt với
thơ Cổ thể là thơ không theo luật.
Từ đời Đường trở về sau thi luật mỗi ngày mỗi được thi
nhân tinh vi hoá.
Vương Tri Thuỷ: - Đó là về thể thức. Còn tánh cách?
-
Thơ đời Hán đời
Nguỵ, phần nhiều từ và ý đều chất phác. Sang Lục Triều, phần đông thi nhân đều
theo thuyết duy mỹ, lấy hoa lệ du dương làm hay. Đến đời Đường thì thơ phát đạt
đến cực điểm. Thơ gồm đủ tánh chất đủ thể cách. Bao nhiêu tinh ba của các đời
trước đều dồn cho đời Đường. Cho nên thơ Đường hay đủ vẻ, từ giản dị đến phức
tạp, từ tự nhiên đến điêu trác, từ thanh đạm đến diễm kiều, từ tiêm nùng đến cổ
kính, và hùng hồn có, u hận có, cao cổ có, ôn nhu có, hào phóng có, trang nhã
có, sơ khoáng có, hàm súc có… Nội dung cũng như hình thức thật giàu mà cũng
thật sang. Rõ là trăm hình nghìn sắc và muôn hương của hoa xuân trong vườn
Thượng uyển. Người đời thường gọi Đường là Hoàng Kim thời đại của Thơ.
Nói tóm lại: Thơ đời Hán đời Nguỵ, phần nhiều chất thắng văn; thơ đời Lục Triều,
phần nhiều văn thắng chất; riêng thơ đời Đường là văn chất bân bân vậy. Bởi thế
cổ nhân có câu “Đường thi, Tấn tự, Hán văn chương, nhân gian tuyệt phẩm” (2).
Thơ các đời sau mỗi đời có một sắc thái riêng, có những đặc điểm riêng, nhưng
vẫn không hơn nổi thơ Đường. Cả Au lẫn Á, các nhà phê bình văn học đều nhận như
thế cả.
Hoàng Ninh Chữ:
-
Xin trở lại cùng
thơ Ngũ Ngôn. Lão Vườn đã cho biết Ngũ Ngôn luật thi có trước Thất Ngôn luật
thi. Và từ đời Đường trở về sau Thất Ngôn thịnh hành hơn Ngũ Ngôn chăng?
-
Không kém. Để
chứng minh, lão xin đọc một ít bài Đường thi lão thuộc:
BIỆT HỮU NHÂN
Thanh san
hoành bắc quách
Bạch thuỷ
nhiễu đông thành
Thử địa nhất
vi biệt
Cô bống vạn
lý chinh
Phù vân du tử
ý
Lạc nhật cố
nhân tình
Huy thử tự tu
khứ
Tiêu tiêu ban mã minh.
(Lý
Bạch)
Dịch phỏng:
TIỄN BẠN
Giăng cõi bắc non xanh từng dãy
Quanh thành đông nước chảy trắng phau.
Nước non nầy một xa nhau
Lênh đênh muôn dặm biết đâu cách bồng
Y du tử mây lồng man mac
Tình cố nhân bát ngát trời hôm
Vẩy tay vó ngựa khôn cầm
Từ đây tiếng lạc âm thầm bên tai…
XUÂN VỌNG
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời ba hữu lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hoả liên tÂm nguyệt
Gia thư để vạn câm
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trầm
(Đỗ Phủ)
Dịch phỏng:
TRÔNG XUÂN
Nước dẫu phá non sông còn đó
Rợp thành xuân cây cỏ khoe tươi
Lệ hoa sùi sụt cảnh đời
Biệt ly để hận tơi bời lòng chim
Liền ba trăng ngập chìm khói lửa
So nghìn vàng
nét chữ gia hương
Lụn dần đôi
mái tóc sương
Cành trâm cất
giữ chán chường điểm tô.
NHẠC DƯƠNG VÃN CẢNH
Vãn cảnh hàn
nha tập
Thu phong lữ
nhạn qui
Thuỷ quang
phù nhật xuất
Hà thái ánh
giang phi
Châu bạc lô
ba thổ
Viên hồng thị
diệp hi
Trường An ti
thấp địa
Cử nguyệt vị
thành y
(Trương
Quân)
Dịch phỏng:
CẢNH CHIỀU Ở NHẠC DƯƠNG
Chiều xuống
cây đầy quạ
Nhạn về hiu
gió may
Nước chao
vầng nhật nổi
Ráng cuộn
giải sông bay
Vườn thị hồng
rơi chậm
Bờ lau trắng
phủ dày
Tràng An đất
ẩm thấp
Tháng chín áo
chưa may.
TẶC BÌNH HẬU TỐNG NHÂN BẮC QUI
Thế loạn đồng
nam khứ
Thời thanh
độc bắc hoàn
Tha hương
sanh bạch phát
Cựu quốc kiến
thanh sơn
Hiểu nguyệt
quá tàn luỹ
Phồn tinh túc
cố quan
Hàn cầm dữ
suy thảo
Xứ xứ bạn sần
nhan
(Tư
Không Thự)
Dịch phỏng:
GIẶC YÊN TIỄN NGƯỜI VỀ BẮC
Lúc loạn cùng
chung bước
Lui chân chỉ
một mình
Quê người
sanh tóc bạc
Nước cũ ngắm
non xanh.
Trăng sớm qua
tàn luỹ
Sao hôm nhóm
cố thành
Nơi nơi chim
lẫn cỏ
Đưa đón dáng
buồn tênh!
Lương Chu Phát:
-
Tình cảnh như vẽ!
Lời ngó thưa mà ý thật nhặt, câu tuy ngắn nhưng âm và hưởng đều du trường.
Chính chỗ khó mà lão vườn nói khi nãy, Đường nhân đã vượt qua dễ dàng.
-
Cổ nhân nói: “Một
bài thơ Ngũ luật như một hội 40 hiền nhân, lẫn một kẻ tục tử vào không được”. Ý
nói thơ ngũ ngôn luật, tiết ngắn âm dài, nếu một chữ hỏng thì cả bài bị hỏng.
Đường nhân nhờ thận trọng nên thành công.
Vương Tri Thuỷ:
-
Xem ba luật thơ
của Định Phong, tôi nhận thấy tác giả đã học được âm điệu đời nhà Đường. Nhưng
thơ của Đường nhân tuy buồn mà không lạnh, còn thơ của Đinh Phong lại hiu hắt
như chiều đông!
-
Đó là do tánh
tình một phần, do hoàn cảnh một phần. Theo chỗ lão biết thì mấy bài kia. Định
Phong sáng tác thời Kháng chiến chống Pháp, tại Liên Khu V. Lúc bấy giờ tác giả
vừa bị cán bộ địa phương cô lập vừa tự cô lập:
Tình bận nước
non canh đỗ vũ
Đời riêng thơ
mộng gác liêu trai.
Thì làm sao thơ không lạnh lẽo được.
Hoàng Ninh Chữ:
-
Bài QUA ĐÒ GẶP
NGƯỜI CŨ vừa bỏ vần trắc vừa không đối nhau ở cặp trạng. Như thế có phải thơ Cổ
Phong chăng?
-
Không phải. Đó là
thơ Đường luật. Đường nhân thỉnh thoảng cũng có dùng vận trắc. Còn thơ luật mà
hạm liên không đối song ý liền nhau, đến Cảnh liên mới đối, đó là PHONG YÊU
THỂ. Lại có 1 thể nữa, câu 3 và câu 4 không đối nhau, nhưng câu 1 và câu 2 đối
nhau. Đó là DU XUÂN THỂ. Du xuân là “ăn trộm xuân” ví cũng như hoa mai ăn trộm
xuân mà nở trước trăm hoa vậy.
-
Chắc còn nhiều
thể khác?
-
Còn khá nhiều,
như Đoạn Huyền Thể (3), Cách Cú Thể (4),
Hồi Văn Thể, Điệp Tự Thể, Bình Đầu Thể, Ao Thể,
Câu thi thể (5), Toàn trắc , toàn bình thể, vân vân…
Lương Chu Phát:
-
Sao lão Vườn
không đem ra giảng minh và phổ biến để giúp ích cho kẻ muốn học làm thơ ?
-
Ai còn học Thơ Cũ
nữa ? Huống hồ đó là phận ự các nhà viết sách dạy thơ, các nhà nghiên cứu về
thi học. Lão chỉ lãnh nhiệm vũ giữ vườn, không dám bắt chước anh thợ đóng giày
phê bình hoạ phẩm.
_____________________________________________________________________________
(1) Lục Triều:
Các Triều Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần đều đóng đô tại Kiến Khang,
nên gọi là Lục Triều. Nói thơ Lục Triều là lối thơ duy mỹ là nói bao quát. Chớ
cũng có lắm nhà thơ như Đào Tiềm, văn chương thanh đạm cao viên…
(2) Thơ đời Đường
, chữ đời Tấn, văn đời Hán, đó là những nghệ phẩm tuyệt diệu trong thế gian.
(3)
Lời thơ ngó rời rạc mà ý thơ liền nhau, như giây tơ đứt mà tiếng ngân vẫn không
ngừng.
(4)
Câu lẻ đối với câu lẻ câu chẵn đối với câu chẵn.
(5)
Không theo đúng hẳn luật bằng trắc.
6.
Cũng như thơ Ngũ Ngôn luật thi, thơ Thất Ngôn tuyệt cú
và Ngũ Ngôn tuyệt cú còn được truyền tụng rất ít. Và từ ngày Vườn Hoa Thơ được
mở đón hương sắc bốn phương, hoa thơ gởi đến hầu hết là Thất Ngôn bát cú.
Nhiều khách làng thơ cũ tỏ ý khinh thường. Người thì
cho rằng tuyệt cú không đối và ít câu, ai làm cũng được. Kẻ lại bảo chữ ít quá
không đủ để diễn tả trọn nỗi lòng.
Vừa rồi lão cho ra đời tập ĐỌNG BÓNG CHIỀU gồm toàn
thơ Thất tuyệt. Các bạn quen biết, phần đông thương hại cho lão lực yếu tài suy
không còn làm nổi thơ bát cú. Lại có người tưởng đám thanh niên công kích, tán
đảm mà xoay chiều. Ông bạn già Đoàn Thúc Luân đến hỏi lão:
-
Có lẽ chê thơ đối
ngẫu không còn hợp thời nữa chăng?
-
Con chim chiền
chiện lúc cao hứng bay lên không trung kêu hót líu lo. Hứng tàn hạ cánh xuống
chui vào cành xanh cỏ biếc mà nghỉ ngơi… Lão cũng như con chim chiền chiện kia,
có chạy theo thời đâu mà bảo rằng hợp rằng lỗi.
-
Chớ tại sao?
-
Lúc còn nhỏ, chắc
ông bạn cũng như lão, hễ gặp bạn thân lâu ngày xa cách, thì mừng rỡ vỗ vai vỗ
vế, cười nói suốt thời gian gần gũi nhau. Nhưng đến lúc tuổi đã cao, tánh đã
thuần, tâm đã định, thì chỉ một cái gật, một nụ cười…, cũng đã đủ để nói lên
tất cả những gì chất chứa trong bụng. Làm thơ chũng vậy. Cái quí nhất là ở chỗ
không nói mà nói, ở chỗ nói giữa những hàng chữ, nói ngoài lời thơ. Diệu của
thơ là ở chỗ nói bằng cách không nói chớ không phải bằng cách nói khéo. Đó là
bí quyết thành công của thơ Tứ Tuyệt. Lão ráng tu luyện bấy lâu và tập Đọng
Bóng Chiều mới là những bước chập chững.
Lão có hai ông bạn gì thường tới lui với nhau là Đoàn
Thúc Luân và Lý Thường Kiến. Thúc Luân thì sính thơ nhưng nhác nghiên cứu thi
học. Trái lại Thường Kiến rất ghét xướng hoạ, cao hứng lắm mới ngâm chơi đôi
vận mà thôi, song thi pháp rất vững và bút pháp của các danh gia Đường Tống
Minh Thanh được ông bạn nhận xét rất tinh tế. Nhưng ông bạn rất dè dặt. Ngồi
với người lạ thì không bao giờ đề cặp đến thơ, còn đối với tri âm thì nói
chuyện suốt ngày đêm không biết mỏi. Nghe câu lão đáp lời Thúc Luân, ông bạn
gật đầu biểu đồng. Và để cho Thúc Luân thấy rõ rằng lão không nguỵ biện, ông
bạn trích dẫn đôi bài thơ trong Đọng Bóng Chiều có những câu đối ngẫu:
XUÂN QUẠNH
Thược sược
gió bay màu tuý vũ
Hải đường
sương tỉnh giấc xuân tiêu.
Con oanh năm
ngoái không về nữa
Sắc liễu xanh
xao tiếng địch chiều.
ĐỒNG QUÊ
Mây biếc đồng
quê xuân tới đó
Cỏ thơm người
cũ mộng tìm đâu
Đãi đưa hoa
nở vần cô hứng
Lặng lẽ sông
khơi mạch viễn sầu
Đoàn Thúc Luân:
-
Thơ Tứ Tuyệt
không cần đối. Vì sao Lão Vườn lại còn đối cho mất công?
-
Mất công không phải
ở việc đối mà ở chỗ làm cho người ta phải thắc mắc hỏi “vì sao” .
-
Thì hãy cởi mở
thắc mắc cho người ta. Đã mất công thì mất công luôn một thể cho tiện.
Lão nhìn Lý Thường Kiến. Thường Kiến cười:
-
Giỏi Dịch không
bói, giỏi thi không nói.
Lão bắt bí:
-
Thúc Luân đã hỏi,
nếu ông bạn không nói tất nhiên tự cho rằng mình giỏi thi.
Thường Kiến:
-
Nay ngày mấy âm
lịch?
Thúc Luân:
-
Mười bốn.
Thường Kiến:
-
Miệng đàn bà con
trẻ nói vậy mà thiêng!
Lão hiểu ý ông bạn muốn nói “ngày nguyệt kỵ đi chơi
cũng lỗ..” (1), bèn đáp:
-
Chữ NHÂN là vị
tha và vô ngã, sao còn nghĩ đến việc lỗ lời? Huống nữa nếu quả mình có lỗ đi
nữa mà người khác lời thì cũng huề vốn kia mà .
-
Sao lão vườn
không nói?
-
Đã già mà chưa chịu
rụng răng thành ra lão khẩu! Còn lão già háp Thúc Luân kia, sách đưa cho không
chịu đọc cứ bắt người ta nói cho nghe?
Thúc Luân: - Nếu tôi chịu học nữa thì trời sanh bác ra
để làm gì?
Thường Kiến:
- Vậy hãy
nghe đây: Thơ Tuyệt Cú cũng gọi là Triệt Cú hay Tiệt Cú. Triệt hay Tiệt là đứt
ra chặt ra. Dứt, chặt Luật thơ ra làm hai để lấy một nửa. Trong một tuyệt, nếu câu
1 câu 2 đối nhau, đó là cắt bỏ bốn câu đầu của Luật mà lấy bốn câu sau. Như bài
XUÂN QUẠNH thượng dẫn. Nếu toàn bài đối nhau, như bài ĐỒNG QUÊ và bài thơ cổ
sau đây:
Gió đưa dương
liễu cành cành nguyệt
Cụm toả ngô
đồng lá lá sương
Thuyền mọn
năm canh người Bích Hán (2)
Địch dài một
tiếng khách Tầm Dương (3)
Đó là cắt lấy 4 câu giữa của Luật. Nếu câu 3 và câu 4
đối nhau như bài DỆT CỬI của Lê Thánh Tông:
Thấy dân rét
mướt nghĩ mà thương
Nên phải lên
ngôi gỡ mối dường
Tay ngọc lần
đưa thoi nhật nguyệt
Gót vàng khẽ
đạp máy âm dương.
Đó là cắt lấy 4 câu đầu của Luật. Còn nếu toàn bài
không có đối, đó là cắt lấy 2 câu đầu và 2 câu cuối của Luật. Như bài MỜI TRẦU
của Hồ Xuân Hương:
Quả câu nho
nhỏ miếng trầu ôi
Này của Xuân
Hương mới quệt rồi
Ví phải duyên
nhau thời thắm lại
Đừng xanh như
lá bạc như vôi.
Đoàn Thúc Luân: - Vì Tuyệt Cú chỉ có nửa Luật Thơ, nên
giá trị cũng chỉ phân nửa Bát Cú.
Thấy họ Đoàn không lấy phẩm mà lấy lượng để đánh giá thơ,
Thường Kiến giải thích tiếp:
-
Thơ Tuyệt Cú, bên
ngoài trông nhỏ bé, song bên trong là một tiểu càn khôn. Bốn câu Tuyệt Cú phải
gánh nhiệm vụ của tám câu Luật thi. Và tuy cách tiệt luật có khác, nhưng cách
bố trí trong bài Bát Cú. Bài Tứ Tuyệt nào cũng phải bài bố KHAI THỪA CHUYỂN
HIỆP cho thoả đáng. Có đối hay không đối,
mạch luôn luôn phải nối, khí luôn luôn phải liền, doanh lộn nhịp nhàng,
câu tuyệt mà ý không tuyệt. Giá trị của Tuyệt Cú là ở chỗ lời giản ước mà ý hàm
súc, mới ngó qua thì như cạn gần, song càng đọc càng thấy sâu xa cao rộng. Khó
làm được hay, nhưng đã hay thì Bát Cú không theo kịp. Bỡi vậy các cụ ngày xưa
thường nói: “Thơ hay đến Tứ Tuyệt mới là tuyệt” và giải thích: “Tuyệt cú là
Tuyệt diệu từ”.
Thúc Luân: - Vì có thành kiến nên lâu nay hễ thấy thơ
Tứ Tuyệt là tránh. Do đó mà ngọn nguồn lạch sông không chút thông thạo! Nay
ngày nguyệt kỵ trở thành Các Nhật, thì mong hai ông bạn đừng đợi ngày qui tiên
để đem sở học của mình về trả lại cho Văn Xương thần nữ.
Thường Kiến ngó lão, cười ngất: - Bác đọc sách nào mà
gọi Văn Xương Đế Quân là Thần Nữ?
Thúc Luân: - Chớ bác đã gặp Văn Xương lần nào chưa mà
dám cãi rằng không phải Thần Nữ.
Lão can thiệp: - Thần Phật không có Nam Nữ. Như Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát, khi thì giáng thế với hình tướng người đàn ông, khi thì
hiện thân là người đàn bà. Đức Văn Xương cũng vậy. Ở Á Đông, Ngài là Đàn Ông,
sang Âu Châu thì là Đàn Bà.
Thường Kiến: - Lão bất tử lão thành tặc! Lão tặc muốn
xuống địa ngục phải chăng mà dám cả gan xúc phạm thần thánh?
-
Đâu dám. Nghe
truyền rằng thần Văn Xương ở Trung Hoa lâu ngày chán các văn nhân thi sỹ dùng
bút lông, mới sang chơi Hy Lạp. Đương khoái văn hoá Hy Lạp thì gặp lúc thần Duy-Bi-Tê
(Jupiter) ái ân cùng nàng Nễ Liêm Nữ Polymnie) cùng tám chị em xinh đẹp ngự trị cõi
Tinh Thần Âu Châu. Đó là Nàng Thơ. (4)
-
Sách nào chép
chuyện hoang đàng ấy?
-
Xin hỏi ông bạn:
Sách xem do ai làm? Và sau nghìn năm nữa chúng ta có trở thành cổ nhân chăng?
Huống nữa cổ nhân đã dạy nên tin sách “vô thơ” kia mà (5)
Thúc Luân:
-
Thời Tiền Chiến
có Phan Khôi tiên sinh ưa lý luận kiểu phan ngang như vậy. Cho nên đương thời
có câu “Lý Luận Phan Khôi”. Nay lão vườn kế túc Phan Tiên sinh, nên xin gọi lối
lý luận kiểu vô thơ kia là “Lý Luận Lão Vườn” Những ngày xuân ngắn chẳng bằng
gang, nên xin bớt dùm ba hoa để tiếp tục giảng cho nghe về thơ Tứ Tuyệt.
Thường Kiến:
-
Trong một bài
thơ, Tuyệt Cú cũng như Bát Cú, phải có chủ khách thì ý thơ mới tròn. Và chủ
khách phải tương kính tương liên, tương y tương phụ, song chủ khi nào cũng phải
giữ vai chính. Một bài thơ dù văn hay đến đâu mà khách lấn chủ, cũng bị kẻ thức
giả đánh rớt xuống ông tú Tôn Sơn. (6). Trong Vườn Hoa Thơ cũng vậy. Không muốn
cổ nhân trong nơi u huyền cười rằng chưa đọc qua Thi pháp Nhập Môn mà cũng nói
chuyện Thơ, nên tôi xin hoàn lại cho lão vườn nhiệm vụ tiếp khách. (7)
Không cần khách sáo, lão tiếp:
-
Luật thơ đã được
diễn chế nghiêm túc. Thơ tuyệt cú cũng như thơ Bát cú, Ngũ Ngôn không thể thêm,
Thất Ngôn không thể bớt. Ví dụ như mỹ nhân của Tống Ngọc, bớt một ly thì quá
thấp, thêm một ly thì quá cao…, áo xiêm son phấn cũng đều không thể thêm không
thể bớt…
Thúc Luân ngắt lời:
-
Để câu chuyện bớt
sa đà, xin nói thẳng vào thơ Tứ Tuyệt.
-
Thơ Tứ Tuyệt, lời
thưa mà ý nhặt. Câu khai câu thừa miễn được trôi chảy, thong dong. Uyển chuyển,
biến hoá, công phu toàn ở câu thứ ba. Câu thứ ba mà chuyển biến được hoàn hảo
thì câu thứ tư chẳng khác thuyền thuận dòng xuôi gió. Cho nên câu thứ Ba tức là
câu chuyển giữ vai cốt cán trong bài thơ. Nhiệm vụ phải thừa Thượng tiếp Hạ.
Lão ví câu thứ Ba như một cái thác đón nước nguồn cao
trút xuống sông cái. Khách Thơ là người đưa bè gỗ xuống thác. Tay sào phải cứng
cáp thành thạo thì bè gỗ mới khỏi bị sức nước nhận chìm xuống vực, hoặc xô vào
đá bị tan vỡ hay bị mắc kẹt không thể gỡ ra.. Bỡi vậy khách thơ lão luyện
thường dùng sức bút vào câu Chuyển để rồi phát xuống câu Hiệp, còn đối với khai
thừa thì chỉ cho khéo tay một chút, chú ý một chút để khỏi vấp phải những lỗi
lầm trước mắt, như lúc bè gỗ đi trong khoảng thượng lưu phía trên thác, người
chống bè lưu tâm đến những mỏm đá những khúc quanh..
Lão đem bài HOÀNG HẠC LẦU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN của Lý
Thái Bạch ra làm chứng:
Cố nhân tây
từ Hoàng Hạc lâu
Yên ba tam
nguyệt hạ Dương châu
Cô phàm viễn
ảnh bích không tận
Duy kiến
Trường giang thiên tế lưu
Tạm dịch:
Giã từ Hoàng
Hạc lầu tây
Dương Châu
bạn xuống xuân đầy khói hoa
Buồm côi bóng
lẫn trời xa
Vơi vơi nước
chảy xanh hoà sắc xanh.
Thường Kiến:
-
Câu chuyển thừa
thượng tiếp hạ thật thần tình! Khởi thừa ngó dường giản dị mà thật hàm súc!
Tình cảnh gồm đủ mà lại ngậm chứa cả không gian (địa điểm) lẫn thời gian (thời
điểm). Câu chuyển như một khúc phim màu chiếu trên màn bạc, chiếu một con
thuyền từ nguồn xuống biển: Ban đầu thấy một cánh buồm rõ rệt chạy côi cút trên
dòng sông (Cô Phàm). Bóng buồm mỗi lúc một xa dần (viễn ảnh) rồi khuất hẳn vcào
màu trời xanh biếc (Bích không tận), để lại trước mắt một giải sông cuồn cuộn
chảy vào nơi thăm thẳm của không trung. Câu Hiệp chỉ nói đến cảnh mà tình tự
nhiên cảm thấy dạt dào chẳng kém câu “Tâm tuỳ hồ thuỷ cọng du du” trong bài
TỐNG LƯƠNG LỤC của Trương Thuyết.
Thúc Luân:
-
Xin cho nghe trọn
bài của Trương Thuyết.
Thường Kiến đọc:
Ba Lăng nhất
vọng Động Đình thu
Nhật kiến cô
phong thuỷ thượng phù
Văn đạo thần
tiên bất khả tiếp
Tâm tuỳ hồ thuỷ cọng du du
Lão dịch:
Ba Lăng thu nhuốm Động Đình
Ngày trông bóng đảo bập bềnh trên không
Gót phàm khôn thấu non Bồng
Nước hồ cuồn cuộn tấm lòng tuôn theo
Thúc Luân ngồi
trầm ngâm hồi lâu rồi thở dài:
- Theo nghề thơ từ
lúc mày xanh, mãi đến lúc tóc bạc mới đếm được ý vị của Tuyệt Cú! Thật chẳng
khác bấy lâu chuyên uống Trà Biển Hồ, trà Bàu Cạn, trà Cầu Đất…, nay mới được
nhắp chén trà Võ Di Sơn. Biết rằng hương vị quả thơm ngon hơn các giống trà
uống bằng chén tách kia, song còn phải lâu ngày mới nhận thấy rõ được chân
hương chân vị.
Thường Kiến:
-
Cần phải thể
nghiệm thể chứng. Lời nói chúng tôi nãy giờ chỉ là ngón tay trỏ mặt trăng…
Thúc Luân nằm dài trên thảm cỏ dưới bóng mận buông
xanh, đôi mắt lim dim. Hồi lâu ngồi dậy nói:
-
Trong hai bài chữ
Hán và bài Xuân Quạnh, tôi nhận thấy rõ vai trò của câu Chuyển. Trong bài của
Hồ Xuân Hương cũng thế. Còn bài ĐỒNG QUÊ thì chỉ có khai thừa liên hệ mật thiết
với nhau, chớ chuyển và hiệp trông chẳng khác đường Quốc lộ số 1 và đường xe lửa
xuyên Việt, chỉ đi song song với nhau chớ không có chỗ tiếp nối.
Thường Kiến: - Ông bạn thật đáng thờ đức Khổng Tử là
Thánh Tổ bởi theo đúng lời Ngài dạy, nên đã thận tự rồi đem ra thẩm vấn. Tôi
cũng xin theo lời Ngài mà minh biện để ông bạn về lo đốc hành:
Thơ Tuyệt Cú có thực tiếp và hư tiếp. Nghĩa là thừa
tiếp có lúc thật lúc hư. Thực dễ thấy, hư khó thấy. Bài ĐỒNG QUÊ thuộc về Hư.
Hư tức là không thấy nói mà vẫn có nói, nói trong ý thơ nói sau nghĩa chữ. Để
ông bạn khỏi ngờ rằng cưỡng giải, tôi xin diễn bài thơ ra văn xuôi. Những lời tôi
thêm vào là những lời chỉ “hé môi” chớ không “lên tiếng”:
Nơi Đồng quê mây biếc đã đến cùng xuân rồi đó, mà
người cùng mình du phương ngày trước không biết ở nơi đâu để mộng đưa lòng tìm
gặp. Để cho cảnh cô đơn bớt phần lạnh lẽo trong lúc xuân về, hoa giúp hứng thơ
cho mình sáng tác. Nhưng đó chỉ là thái độ đãi đưa của giống Đẹp, chớ đâu phải
do thanh khí lẽ hằng. Cho nên sầu xuân cũng như sông xuân âm thầm khơi mạch và
lặng lẽ chảy mãi về tận nơi biền biệt xa xăm.
Ý “Để cho cảnh cô đơn bớt phần lạnh lẽo trong lúc xuân
về” nằm trong chữ CÔ HỨNG. Ý “Chớ đâu
phải do thanh khí lẽ hằng” nằm trong chữ
ĐÃI ĐƯA. Ý nằm sẵn đó để trong bóng tối thừa ý câu 2 chuyển xuống câu 4
bằng mấy chữ vô hình CHO NÊN.
Nhận thấy Thúc Luân chăm chú nghe với niềm hân hoan
thích thú, lão cao hứng tiếp lời Thường Kiến:
-
Khai, thừa,
chuyển, hiệp, khi thì nhất khí quán hạ, như bìa của Hồ Xuân Hương và hai bài
Đường Thi. Khi thì hư thực tương y, như bài Đồng Quâ. Khi thì thuận nghịch
tương ứng, như bài xuân quạnh..
Thúc Luân:
-
Nhất khí quán hạ,
dễ nhận thấy. Hư thiệt tương y, lãnh hội được rồi. Còn thuận nghịch tương ứng,
chưa nhận thức thấu đáo.
Thường Kiến:
-
Ông bạn không
thấy trong bài Xuân Quạnh, của câu Hiệp sao? Đối với Xuân, vui đẹp là Thuận, mà
buồn úa là nghịch. Nếu không có câu chuyển kéo trên níu dưới thì tránh sao khỏi
cảnh Nguyễn Trịnh lập Nam, Bắc Triều, chớ dễ gì mà nương tựa nhau giúp đỡ nhau
để cho trong ngoài đều nổi bật giữa cõi trời thanh sắc.
Lão nói thêm:
-
Bằng vào phương
pháp diễn ý khác nhau, cổ nhân chia thơ ra làm nhiều cách: Bài thơ của Hồ Xuân
Hương và Lý Thái Bạch, ý tứ trong các câu liền lạc nhau từ trên xuống dưới,
thuộc về LIÊN CHÂU CÁCH. Bài của Trương Thuyết tuy cũng nhất khí quán hạ như
hai bài của họ Lý họ Hồ, song ý tứ của nửa dưới phân riêng ra để đáp ứng ý
tứ nửa trên, nên thuộc PHÂN ỨNG CÁCH.
Bài Xuân Quạnh, ý tứ tuy nhất quán,
nhưng không liên thuộc, nên thuộc TRIỆT YÊU CÁCH. Bài Đồng Quê, nửa trên
nửa dưới dường như không liên tiếp nhau
mà thật ra lại lưu thông với nhau, nên thuộc TỤC YÊU CÁCH…
Thúc Luân:
- Sau khi được
hai ông bạn khai thị, tôi nhận thấy bài Dệt Cưỉ của Lê Thánh Tông và bài Cảm
Tác của vị sứ giả Việt Nam tiền bối, chưa xứng là Tuyệt Cú, vì có thể thêm và
cần phải thêm bốn câu nữa mới trọn tình trọn ý.
Thường Kiến:
-
Bài Cảm Tác không
thêm nữa cũng được. Chớ bài của Lê Thánh Tông, vua Tự Đức đã thêm bốn câu sau:
Chín trùng
xiêm áo dầu phê phủ
Trăm họ câu
đai mặc sửa sang
Trọn bức sau
rồi thâu mối một
Công phu cầm
bẵng giá ngàn vàng. (8)
Không hay bằng 4 câu của Tôn Thọ Tường thêm. Trong khi
thêm 4 câu sau, họ Tôn có sửa đôi chữ ở 4 câu trước:
Thấy dân rét
mướt chạnh lòng thương
Phải bước lên
không sửa mối dường
Tay ngọc lần
đưa thoi nhật nguyệt
Gót son dằn
đạp máy âm dương
Xuân riêng hoa
liễu tơ dồn kết
Duyên hiệp
rồng mây chỉ vấn vương
Dâng gấm sân
chầu mong có thuở
Sánh dường Tô
Huệ bức văn chương. (9)
Lão tiếp:
-
Bài Dệt Cửi của
Lê Thánh Tông tuy ý tứ chưa được tròn, song không phải thất cách. Thơ Tuyệt Cú
lấy hai ý làm kết, gọi là SONG VỸ CÁCH, cũng gọi là Song Hiệp Cách. Còn bài Cảm
tác 2 câu trên tả cảnh 2 câu dưới tả tình, gọi là TIỀN THỰC HẬU HƯ CÁCH, (10), cũng gọi là Song Khai Song Hiệp
cách, Bài thơ Xuân Quạnh, mặc dù khai thừa liên quan với nhau, đứng trên phương
diện hình thức cũng có thể gọi là SONG KHAI cách.
Thúc Luân: - Chắc còn nhiều cách khác nữa?
Thường Kiến: - Còn nhiều. Nhưng ăn có tiêu mới bổ ích.
Và học thơ cũng như học kiếm, chỉ vài ba phép mà luyện cho tinh cũng đủ dùng
khi hữu sự.
__________________________________________________________________
(1) Ca dao: Mồng
năm mười bốn hăm ba / Đi chơi cũng lỗ lựa là đi buôn.
(2) Bích Hán tức là sông Ngân Hán. Lấy tích một sứ giả đi
lạc lên sông Ngân Hán. Bài này là lời một sứ giả. Các sách thường chép là của
cụ Phan Thanh Giản làm lúc sang Pháp. Lão không tin , nên không ghi tên.
(3) Tầm Dương là bến sông Bạch Cư Dị gặp một lão kỹ rồi
soạn ra Tỳ Bà Hành.
(4)
Phỏng theo Thần Thoại Hy Lạp. Nàng Thơ: La Muse.
(5)
Cổ nhân thường khuyên: Tập tín thơ bất như vô thơ. Ý nói đụng sách nào cũng tin
thì tốt hơn là đừng đọc sách. Đây chỉ nói để mua vui.
(6)
Tôn Sơn là 1 ông tú tài chót. Dưới ông tú chót tức là hỏng. Thay tiếng thi hỏng
cổ nhân thường nói “ Lạc Tôn Sơn chi ngoại” hay “ Danh lạc Tôn Sơn”.
(7) Người học làm thơ Đường Luật biết rõ điều đó.
(8)
Chỉ nghe truyền chớ không thấy sách
(9)
Sách Văn Đàn Bảo Giám có chép, song có đôi chữ khác
(10)
Những gì hiện ở trước mắt là Thực, những gì không hiển hiện trước mắt mà biết
rằng có cảm thấy có là hữu tình cũng như cảnh đều có hư có thực. Song thường
thường các học giả cho tình là hư, cảnh là thực.