3.
- Trời Đông
Chí, nắng trong nhưng gió lạnh. Hoa mận rụng đầy sân, bay đầy ngõ. Mùi hoa
trong và ngọt. Sắc hoa trắng và nhẹ. Lão có cảm giác đương ngồi thưởng bạch mai
nở trong tuyết lúc mặt trời lên. Cao hứng lão cất tiếng hát:
Gió hương thổi lọt hoàng bào
Kiều mai tuyết điểm động đào mây giăng
(Đào
Tấn)
Chợt có tiếng từ ngoài đường vọng vào: - Có gì thích
thú mà ngồi hát nghêu vậy?
Tiếng vừa dứt thì hai ông khách ung dung vào vườn. Một
ông tóc đen râu bạc, một ông tóc bạc râu đen. Tưởng rằng khách lạ ai ngờ bạn
quen: Bác Khánh Vân và bác Hoà Phong.
Khánh Vân: - Hôm nọ đi ngang qua vườn, nghe lão vườn
nói chuyện thơ cùng mấy ông khách thanh niên. Dừng lại nghe trộm, nhận thấy có
đôi điều chưa vừa ý, nên rủ bác Hoà Phong đến thảo luận cùng lão vườn.
-
Lão xin lĩnh
giáo.
-
Tại sao lão vườn
chỉ nói cùng các ông khách thanh niên về niêm luật, mà không nói rõ về bát
lệnh, ngũ kỵ, tứ bất nhập cách… Như thế họ tưởng rằng Luật Thơ Đường chỉ có bấy
nhiêu, lòng kỳ thị đã có sẵn của họ, không khéo vì Lão Vườn mà tăng trưởng đó
chớ chẳng chơi.
-
Những khách thanh
niên đó đều là người đồng hương với lão. Tất cả đều là người hiếu học cầu tiến.
Đáng được dìu dắt nâng đỡ. Nhưng kinh nghiệm cho lão thấy rằng: Người mới học
làm thơ thường hay sợ khó, và người muốn thưởng thức thơ, phần đông đều ghét
khó. Cho nên đưa những cái khó của luật Đường ra, chẳng những không lợi cho
người nghe, mà còn có hại cho người nói bởi những điều không thích nghe làm
giảm hứng thú và giảm cảm tình của người nghe.
-
Lý luận như lão
vườn, thì cổ nhân đặt ra những thứ đó để làm gì?
-
Cổ nhân không đặt
ra những thứ đó, mà chính đã rút ra từ trong những tác phẩm lưu thế và nơi kinh
nghiệm bản thân, rồi hệ thống hoá, cụ thể hoá, và đặt cho mỗi thứ cái tên cho dễ phân biệt dễ nhớ đó thôi. Cũng
như những đức tốt vốn đã sẵn có trong tâm hồn loài người, Thánh Hiền chỉ có
công khai thác và giảng minh. Cũng như các thứ bệnh vốn đã có sẵn trong mình
người đời, các nhà thông thái nhờ khoa học tiến bộ mới phát triển được những vi
trùng vi khuẩn một cái tên cho dễ phân biệt dễ nhớ đó thôi. Những lợi những
bệnh mà cổ nhân đã rút ra được, tất cả đều được giảng cứu biện minh rồi mới
viết thành sách. Viết ra không phải để khoe tài khoe học, mà cốt để giúp cho
những người đã biết làm thơ có thể nương vào đó mà đi đến chỗ tinh vi của nghệ
thuật.
Bác Hòa Phong ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi gật đầu tỏ ý
tán thành. Bác Khánh Vân hỏi vặn:
-
Như vậy đối với
hàng hậu sinh cầu học, lão vườn đãi ngộ như thế nào?
Lão chợt nhớ đến câu chuyện của vua tôi người Pháp mà
lão đã được đọc trong sách lúc ở trường, nên bụng bảo dạ:
-
Bác Khánh Vân hay
nói nên râu bạc trước tóc. Bác Hoà Phong hay nghĩ nên tóc bạc trước râu.
Lão bật cười và đáp:
-
Mỗi khi họ đưa
thơ đến Vườn, thì nhân những khuyết điểm trong thơ họ mà cho họ thấy cái bệnh
mà cổ nhân đã giảng minh, và đưa những ưu điểm trong thơ của cổ nhân hoặc của
thời nhân để cho họ thấy những cái lợi mà sách khuyên nên luyện tập. Phải tuỳ
trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi người mà thuyết minh.
Khánh Vân cười: - Vậy từ ngày mở cửa Vườn Hoa
Thơ, chắc lão đã kết nạp được nhiều đệ
tử?
-
Bác tưởng đâu tất
cả những người đưa thơ đến Vườn đều là những người hiếu học cầu tiến? Họ đưa
thơ đến mục đích chính là để được khen. Lắm người không được lão khen tỏ ý bất
bình. Cho nên lão có câu bá cáo:
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi
Thơ hay ai nỡ tiếc lời khen hay.
Thêm nữa lão rất sợ làm thầy, nên giúp đỡ những bạn
trẻ cầu học thì lão sẵn lòng giúp đỡ, chớ nhận làm môn đệ thì lão rất e dè, bởi
nếu không tác thành nổi thì rất khổ với lương tâm. Huỳnh Thạch Công chỉ có một
mình Trương Lương là đệ tử. Lão vốn không phải Huỳnh Thạch Công, mà trên đời
nầy không thể có Trương Lương. Cho nên trong Vườn Hoa Thơ nầy chỉ có tình bằng
hữu chớ không có tình sư đệ.
-
Nhưng nếu có
người tôn kính Lão Vườn làm thầy thì lão vườn tính sao?
-
Thì hết lòng với
người ấy, hết lòng truyền thụ những gì mình biết mà người ấy có thể thu nhận
được, và thương yêu họ như con em trong gia đình. Song đối với lương tâm lão
không chịu trách nhiệm về kết quả, đắc cũng như thất. Đó cũng như những bậc
kiếm hiệp lão thành đưa người có tài có tâm chí về sơn động dạy dỗ tận tình
nhưng không chịu nhận lễ bái sư.
Hoà Phong vuốt râu cười:
-
Lão Vườn phòng xa!
Thói phản sư xưa nay thường lắm. Cho nên đừng nhận danh vị sư để khỏi mang
tiếng bị phản chớ gì?
-
Không phải thế.
Không nhận danh vị Thầy chỉ vì tự biết mình không đủ tài đức để lo tròn phận vụ
của một ông Thầy theo đúng ý nghĩa của chữ Thầy trong thiên luân. Mà không lo
tròn phận vụ của Thầy, thì Thầy đã phản trò trước, chớ đâu đợi trò phản thầy.
-
Không nhận danh
vị mà lại tận tâm lo phận vụ. Như thế đối với mình đối với người đều ổn thoả.
Khánh Vân:
-
Mở Vườn Hoa Thơ
để nói chuyện văn chương chớ đâu phải để bàn đạo lý. Vậy xin hãy gác chuyện
Thầy Trò lại để cho tớ hỏi đôi điều mà lâu nay chưa có dịp hỏi.
-
Những điều ấy có
khó lắm chăng?
-
Khó hay không là
do ở chỗ biết hay không biết.
-
Xin cho nghe.
-
Ở Âu Châu có
những trường thơ, như trường Cổ Điển, trường Lãng Mạn, trường Thi Sơn, trường
Tượng Trưng, trường Siêu Thực, v.v... Ở Trung Hoa có những phái thơ, như phái
Duy Mỹ đời Lục Triều, phái Phục Cổ, phái Xã Hội, phái Tự Nhiên, phái Nhàn Tản,
phái Biên Tái, phái Quái Đản…, đời nhà Đường; phái Tây Côn, phái Bạch Thể, phái
Giang Tây tức phái Huỳnh Sơn Cốc…, đời nhà Tống; phái Thần Vận của Vương Sỹ
Trinh, phái Tánh Linh của Viên Tử Tài, phái Thanh Điệu của ngày phong trào Thơ
Mới nổ dậy (1932) làng Thơ cũng chia ra nhiều phái nhiều trường, như Hoài Thanh
đã nói trong Thi Nhân Việt Nam. Mong lão vườn cho biết: Từ đầu thế kỷ XX trở về
trước, thơ Hàn luật có chia trường phái chăng?
-
Ông bạn biết quá
nhiều rồi, sao còn đi hỏi một lão già không nhìn xa quá bốn góc rào của một
vườn hoa thơ bé bỏng trong một địa phương quê mùa? Toan vấn nạn chăng?
-
Không phải thế.
Những cái biết kia là những cái rút trong một quyển sách biên khảo đại lược về
Văn Học Trung Hoa. Đó là lập lại những điều người ta nói, chớ nào phải tự mình
đã đọc thơ Âu thơ Đường thơ Tống thơ Thanh được nhiều rồi rút ra những nhận xét
quí báu, hoặc đọc nhiều Văn Học Sử Âu Châu, Trung Quốc thu thập được những nét
đại cương… Đó là tớ học cách loè đời của những người ít học mà ưa khoe, để loè Lão
Vườn chơi cho vui đó thôi.
-
Ông bạn đã loè
lão bằng sự hiểu biết của ông bạn. Để trả thù lão cũng xin loè lại ông bạn bằng
sự dốt nát của lão: Lão vốn không sở trường việc khảo cứu, lại không được đọc
trọn những tác phẩm của các thi nhân nổi danh của các triều đại Trần, Lê,
Nguyễn. Vì vậy lão không thể nói được chắc chắn rằng trong làng thơ Hàn luật từ
đời Trần đến đời Nguyễn có chia ra trường phái hay chăng.
-
Xin cho biết một
cách đại khái.
Hoà Phong:
-
Việt Nam ta chưa
có một quyển văn Học Sử nào đích đáng. Cũng chưa có một thi nhân văn sỹ nào ra
công nghiên cứu để viết một quyển thi sử có qui mô. Bởi muốn có một tác phẩm có
giá trị về biên khảo, thì trước hết phải lo sưu tầm, sắp xếp, phối kiểm... các
áng dị văn, khôi phục lại những nguyên thoại. Những công việc ấy muốn thực hiện
được đầy đủ cần phải có khả năng, có phương tiện, cần phải trì chí, phải chuyên
tâm.. Tâm chí tài thì Việt Nam ta nhiều người có, song phương tiện thì thiếu
hẳn. Không phải thiếu vì loạn lạc, mà chính vì kẻ có quyền thế thiếu thiện chí
thiện tâm.
Khánh Vân: - Đã có quyền có thế rồi, còn có thiện tâm
thiện chí nữa thì mang sao nổi? Nhưng thôi, đừng cầu toàn. Lão Vườn hãy cho
biết đại lược về trường phái trong thơ Hàn Luật.
-
Bị bức bách thế
nầy thì dù nói đại lượt đi nữa cũng không tránh khỏi sai lầm. Cho nên chỉ nói
thầm với nhau nghe cho vui mà thôi…
-
Nói đi. Đừng đắp
bờ con mãi, chán lắm!
-
Thơ Âu Châu,
trường phái này khác với trường phái kia rõ rệt như rồng khác với phụng, phụng
khác với lân, lân khác với qui. Còn trường phái của Trung Hoa khác nhau chỉ
khác như phụng hoàng khác với đại bàng, đại bàng khác với khổng tước, khổng
tước khác với hạc, trĩ , nga , âu… Riêng nói về trường phái Trung Quốc: Từ đời
Đường trở về trước các thi hào thi bá như Kiến An Thất Tử đời TÂm Quốc, Trúc
Lâm Thất Hiền đời Tấn, Đào Tiềm, Tạ Linh Vân… đời Lục Triều, Lý Thái Bạch, Đỗ
Phủ , Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Lý Thương Ẩn…….. đời Đường, mỗi nhà đều có một cốt
cách một tinh thần riêng biệt. Người sau theo tính cách đặc biệt của mỗi nhà mà
chia ra thi phái, chớ chính bản ý của thi nhân không nghĩ đến bỉ thử, ai theo
khuynh hướng nào cứ theo, chớ không ra công tranh luận để dành phần phải. Môn
hộ bắt đầu chia từ đời Tống trở về sau. Đến đời nhà Minh thì phái này phái nọ
luôn luôn đánh đổ chê bai nhau thái thậm. Mỗi phái đưa ra một chủ trương đường
lối, người trong phái phải theo đúng, thật chẳng khác các đảng phái Chánh trị
Cách Mạng hiện thời…
Còn về Việt Nam nghe truyền có 12 văn phái:
Phái Cổ Âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Phái Liễu Ngạn của Ôn Như Hầu,
Phái Thuỵ Khuê của Phan Huy Ích,
Phái Thanh Nê của Trương Đăng Quĩ,
Phái Lai Thạch của Nguyễn Huy Tự
Phái Phú Thị của Nguyễn Huy Lượng,
Phái Mộ Trạch của Võ Duy Đán
Phái Cổ Độ của Nguyễn Bá Lân,
Phái Cổ Liêu của Nguyễn Công Trứ,
Phái Tiên Điền của Nguyễn Du
Phái Chúa Trịnh
Phái Chúa Nguyễn,
Những văn phái ấy không biết do các vị thủ xướng hoặc
môn đệ đặt ra, hay do người nghiên cứu văn học đặt ra. Nếu người trong phái đặt
ra thì chủ trương đường hướng của mỗi phái như sao? Nếu do người khảo cứu đặt
ra thì những yếu tố nào là những yếu tố căn bản để phân biệt phái nầy với phái
kia? Đó là những điểm mà người đọc cần biết để “phán xét” cho được công minh. Chúng
ta đây, hai ông bạn cũng như lão, không nắm được một yếu điểm nào trong tay,
thì không thể bảo rằng sự phân phái kia có hợp tình hợp lý hay không.
Riêng chỗ nhận xét của lão qua những thi ca của cổ
nhân còn lưu thế, thì thơ Hàn luật không có trường phái rõ rệt. Cũng như thi
nhân đời Đường, mỗi nhà có một cơ trữ riêng, một xu hứng riêng, nhưng không tự
phân lập môn hộ. Đó là vì thơ Quốc âm ngày xưa chưa có một địa vị cao sang trên
nền văn học, người chú tâm chỉ nhắm mục đích tiêu khiển. Không mấy ai tầm sư
cầu học như bên Hán Văn. Cũng như một đảng phái Chánh trị hay cách mạng, một
nhà thơ muốn thành lập môn hộ phải có nhiều người hưởng ứng phụ hoạ, có nhiều
người theo tôn chỉ kỷ cương của mình. Các thi hào thi bá trong làng thơ Hàn
luật, vị nào có nhiều đệ tử làm hành tinh vệ tinh để tạo thành một thái dương
hệ mà mình là mặt trời?
Vì vậy ngày nay, muốn rõ những thi phái của ngày xưa
không phải là việc dễ. Năng lực không đủ, nên lão xin đầu hàng trước những khó
khăn mà lão thấy trước quá nhiều.
Hoà Phong: - Các nhà thơ Việt Nam, về bên Hàn luật, từ
đời Trần đến nay, có nhà nào theo hẳn một thi phái của Trung Hoa chăng?
-
Chưa nghiên cứu
kỹ càng, lão không dám phát ngôn cẩu thả. Bác nên tìm những nhà viết văn học sử
mà hỏi, may ra mới biết được phần nào.
Khánh Vân: - Thấy lão phụ trách việc giữ Vườn Hoa Thơ,
tưởng lão học rộng biết nhiều. Té ra cũng chả hơn gì lũ nầy!
-
Vườn cũng có
nhiều thứ Vườn. Vườn của lão giữ đây là một mảnh vườn nhỏ ở trong một địa
phương quê mùa, như lão đã thưa khi nãy. Vì học ít biết ít, nên mới giữ vườn
nhỏ như thế này. Chớ nếu học nhiều biết nhiều thì đã chạy chọt để được giữ công
viên của những đô thị lớn trong nước. Huống nữa giữ vườn thì chỉ biết những gì
ở trong phạm vi của vườn. Các bác lại hỏi những điều rộng lớn quá tầm vói của
lão, thì bị thất vọng là đáng kiếp, chớ còn than van nỗi gì?
Khách cười lớn mà chia tay.
4.
Mở Vườn Hoa Thơ chỉ để cùng bạn đồng thanh nói chuyện
thi ca cho vui, chớ thật tình không có ý phổ biến sở đắc hầu hướng dẫn bất kỳ
ai theo chủ trương đường lối của mình. Song ngoài khách “trồng hoa thơ”, thường
có nhiều em học sinh cấp Trung Học Phổ Thông đến hỏi lão về những nguyên tắc
trong trường Thơ Cũ, tức thơ Đường luật, vì theo các em ở trường có dạy nhưng
dạy rất sơ sài, mà tánh tò mò của các em lại thúc giục các em tìm hiểu kỹ kỹ
thêm đôi chút.
Nhớ lại lúc lão còn nhỏ:
Học được một ít phép tắc làm thơ và tập tò làm được
một vài bài thơ đúng niêm luật, lão quyết tâm học tập để lớn lên có thể xây
dựng được sự nghiệp văn chương. Vì thiếu thầy thiếu sách, nên hễ gặp được bài
thơ thì lão tìm tới để cầu xin chỉ bản cho những lẽ phải điều hay.
Một hôm lão tìm đến nhà một vị túc nho ở thôn Phú
Phong quận Bình Khê tỉnh Bình Định, là chốn “nghìn năm văn vật” đối với địa
phương lão sanh trưởng. Thấy lão là một cậu học trò học chữ Tây, vị túc nho có
ý khinh thị. Khinh thị là phải. Bởi phần đông học trò chữ Tây lúc bấy giờ tự
cho mình là văn minh, thường buông lời bất kính bất tốn đối với các nhà cựu
học, coi lối cựu học là lối học hữu lâu đã làm cho nước yếu dân hèn! Chính lão
là học trò chữ Tây mà thấy thái độ hống hách mất dạy của một số đông bạn bè,
còn khó chịu thay, huống hồ quí cụ. Cho nên bị vị túc nho bạc đãi, lão không
chút mủi lòng, và từ cử chỉ đến ngôn ngữ lão luôn luôn giữ đúng lễ phép. Nhận
thấy lão không đến nỗi “cẩu bất giáo” (1), vị túc nho lần lần trở lại trạng
thái ôn hoà của con nhà Trình Chu… Khi nghe lão thỉnh giáo về thơ, cụ hết sức
ngạc nhiên:
-
Chữ Tây mà cũng
có thơ à?
Lão thành thật trình bày những điều đã học được ở
trường và xin cụ chỉ giáo thêm. Cụ đọc cho nghe bài Ký Nội của Phan Thanh Giản.
Nhưng lại đọc cặp luận lên làm cặp trạng và cặp trạng xuống làm cặp luận. Không
biết rằng cụ muốn trắc nghiệm sức hiểu biết của lão, lão vội thưa:
-
Về ngoại biểu thì
bài thơ thất niêm, về nội dung thì trạng luận điên đảo.
Cụ vuốt râu cười thoải mái:
-
Khá đó. Không ngờ
trong đám học trò chữ Tây mà lại có người biết thơ Nôm.
Lòng chân thành của lão làm vị túc nho cảm động. Cụ bèn
đem những sở học của cụ truyền cho ít nhiều. Rồi nói:
-
Tôi không sở
trường về Quốc âm. Thơ quốc âm cũng không thuộc được nhiều… Có thể giúp cậu học
hỏi thêm nên tìm đến những ông nầy…
Đoạn cụ đọc tên và nói rõ địa chỉ.
Nhờ vậy mà mỗi kỳ nghỉ hè, lão học thêm được nhiều
điều bổ ích và sưu tập được một số thơ của các danh nhân tỉnh nhà.
Trong lúc “tầm thầy học đạo”, lão gặp nhiều sự khó
khăn. Có khi phải “tam cố mao lư” mà rốt cuộc chỉ được nghe giảng những điều
mình đã học rồi, những điều mà sách Quốc Văn Trích Diễm của Dương Quảng Hàm nói
rành mạch gấp bội. Lão nhận thấy phần nhiều học trò thi ngày xưa học thi pháp
chỉ học những nét đại cương đủ để làm bài cho đúng niêm đúng luật. Riêng những
người sính thơ mới tìm tòi đọc thêm những sách ngoài quyển thi Pháp Nhập Môn.
Các vị này lại hay dấu nghề. Phải khéo léo lắm mới mong được nghe giảng đôi
“món gia truyền”, bày cho đôi “phương bí nhiệm”.
Vì nhớ lại tình cảnh lúc nhỏ của mình, lão trải lòng
đón tiếp các học sinh hiếu học đến Vườn Hoa Thơ. Nhưng không biết bắt đầu bằng
những gì, nên các em hỏi đâu đáp đó, và tuỳ từng trường hợp tuỳ từng đối tượng
mà nói gọn hay nói tường.
Những câu hỏi của các em, nhiều khi lão không trả lời
nổi. Lắm khi không dùng được, lão trả lời một cách trừu tượng, mơ hồ. Như một
hôm một em hỏi:
-
Thơ có từ thời
đại nào? Người còn dã man có thơ chăng?
Lão phải dựa theo lời tựa Kinh Thi mà giải đáp:
-
Thơ gốc ở Chí.
Tại tâm gọi là Chí, phát ra lời gọi là thơ. Tình động bên trong thì hiện hình
ra lời nói; Lời nói không đủ thì phát ra giọng ta phán; Ta phán không đủ thì
phải cất tiếng ca hát ngâm nga; Ca hát ngâm nga không đủ bèn dậm chân múa tay
theo nhịp theo điệu, để nói lên cho kỳ được cái Chí của mình. Đó là lời của
thánh hiền xưa để lại. Theo đó thì thơ có từ lúc con người – giống hữu tình –
biết cảm xúc và biết thể hiện mối cảm xúc của mình trên lời nói. Chúng ta
thường nghe thâý người Thượng ca hát nhảy múa. Như thế là người còn ở trong
trạng thái man dã vẫn có thơ. Những bài ca bài hát của họ là những bài thơ
không viết ra giấy.
Các em có thật thoả mãn chăng chẳng biết. Riêng lão,
lão chưa thật vừa lòng, song không biết nói cách nào khác!
Trong số học
sinh thường đến thăm Vườn, có một vài thiếu nữ đã làm được đôi bài thơ nghe
được. Một cô hỏi: - Thơ quí do nội dung hay do hình thức?
Lão cười: - Người con gái quí nhất ở dung nhan hay tài
hạnh?
Một cô khác đáp ngay: - Ở tài hạnh.
-
Nếu một người con
gái có tài có hạnh mà thiếu nhan sắc thì có được phái thanh niên để ý chăng?
Còn một người dung nhan kiều diễm nhưng hạnh kiểm xấu học thức kém thì có được
người đời quí trọng chăng?
-
Chúng cháu hiểu ý
lão vườn: nội dung và hình thức phải tương xứng.
-
Chính thế. Thơ là
một mỹ thuật, cho nên Đẹp là một yếu tố cần thiết. Đẹp chẳng những đẹp bên ngoài
mà còn phải đẹp bên trong. Cái Đẹp bên trong của người con gái là Tài và Đức,
và cái Đẹp bên ngoài là Dung và Ngôn. Cái Đẹp bên trong của Thơ là Ý, và cái
đẹp bên ngoài là Thanh và Sắc. Ý gồm có bốn phần là TÌNH, LÝ, CẢNH, SỰ. Cho nên
có thơ biểu tình, thơ lý thuyết, thơ tả cảnh, thơ tự sự. Lắm khi trong tình có
lý hoặc có cảnh hoặc có sự; trong sự có tình, có cảnh, có lý… Vì vậy, ý có lúc
đơn thuần, có lúc phức tạp. Thơ nhờ vậy mà phong phú. Để diễn đạt ý thơ thì
phải dùng ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ muốn có sức truyền cảm tức là dễ lọt vào tai để
đi vào lòng người nghe, thì lời phải đẹp giọng phải êm. Lời đẹp tức là sắc,
giọng êm tức là thanh.
-
Như vậy có phải
lão vườn theo thuyết Duy Mỹ của thi nhân đời Lục Triều chăng?
-
Phải mà không
phải. Vì thi nhân đời Lục Triều nhiều khi chỉ chú trọng ở vẻ đẹp hình thức. Còn
lão thì lão nặng cả hình thức lẫn nội dung. Nhưng điều nầy xin gác lại để cùng
quí cô bàn về Sắc mà phần đông các em học sinh chưa thấu triệt ý nghĩa.
-
Chúng cháu xin
nghe.
-
Về vẻ đẹp của
thơ, lão đã nói rõ trong 1 bức thư gởi cho Bàng Bá Lân. Họ Bàng đăng thư ấy
trong quyển Văn Thi Sỹ Hiện Đại, tập II, và Nguyễn Tấn Long trích đăng ở bộ Thi
Nhân Tiền Chiến, tập Trung. Nay lão xin
nói dưới một hình thức khác, nói theo lời dạy của cổ nhân:
Sắc gồm có 4 điểm là Đoàn Luyện, Trang Điểm, Bạch
Miêu, Hình Dung. Đó là bốn tiêu chuẩn của sắc.
Đoàn Luyện là rèn dũa, tức là đúc chữ, rèn câu, sửa
bài cho được tinh hảo xảo diệu. Như:
Chín tầng sen
rớt hơi hương ngự
Năm thức mây
phong nếp áo chầu
(Thanh
Quan)
Vàng thếp
giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dạu
cúc nảy chồi sương.
(Tương
An)
Sầu tuôn mắt
mẹ dòng thơ mật
Tình đọng môi
con giọt huyết ngà
(C.T)
Dòng bích thề
cùng thu có nguyệt
Sử xanh chép
để bút còn hương
(Vương
Tường)
Lạnh lẽo lưỡi
quyên kêu dưới nguyệt
Thơm tho hồn
bướm ngủ trong hoa.
(Khuyết
danh)
Trang Điểm: Tìm những cái bên ngoài thêm vào cho câu
thơ thêm hình ảnh màu sắc, tức là dụng điển cố. Như:
Cỏ biếc chẳng
treo hồn Sở trướng,
Trúc vàng thà
điểm giọt Ngu cung.
(Phạm
Thái)
Biển xanh
thấp thoáng hồn Tinh Vệ
Trời biếc mơ
màng đá Nữ Oa.
(Khuyết
danh)
Biển Bắc chín
tầng rồng lẫn sớm
Non Nam một
đỉnh hạc về trưa.
(Cựu
thần nhà Lê)
Bóng mây thấp
thoáng hồn Diên Hạc
Vách đá lờ mờ
nét Phạm Trương.
(Nguyễn
Đĩnh Giác)
Thuyền mọn
năm canh người Bích Hán
Địch dài một
tiếng khách Tầm Dương.
(Khuyết
danh)
Bạch Miêu: Vẽ trên nền trắng, không dùng màu sắc, tức
là vẽ thủy mặc, tức là tả sự thật với những nét đơn sơ mà đặc sắc. Như:
Lưng dậu phất
phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng
lánh bóng trăng loe
Da trời ai
nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không
viền cũng đỏ hoe
(Yên
Đỗ)
Từng mây lơ
lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc
quanh co khách vắng teo
(Yên
Đỗ)
Thà không
trời không đất không chi cả
Còn có non
sông có lẽ nào
(Sào
Nam)
Đành chẳng
công đâu may khỏi tội
Bao nhiêu chữ
đó bấy nhiêu tâm
(Sào
Nam)
Chữ hiếu ít
nhiều trời đất biếc
Gánh tình
nặng nhẹ chị em chung
(Tôn
Thọ Tường)
Thà chịu chết
trong hơn sống đục
Chết nào có
sợ chết như chơi
(Mai
Xuân Thưởng)
Nằm gắng đã
không thành mộng được
Ngâm tràn cho
đỡ chút buồn thôi
(Hàn
Mặc Tử)
Hình Dung: Tả rõ trạng thái của những gì mình muốn tả,
tức là làm cách nào cho ý thơ nổi bật ở trước con mắt người đọc. Như:
Thảm lấp Phủ
Câu sông một giải
Sầu giăng
Long Thọ núi liền giây.
(Tương
An)
Kim cổ treo
chung tranh thuỷ mặc
Tang thương
chớp nhoáng bóng hoàng hôn
(Hoàng
Cảnh Tuân)
Sóng lớp phế
hưng coi vẫn rộn
Chuông hồi
kim cổ lắng càng mau
(Thanh
Quan)
Đá vẫn bền
gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau
mặt với tang thương.
(Thanh Quan)
Quanh tường
một bức khăn là rủ
Treo nguyệt
ba canh bóng quế cao.
(Vương
Tường)
Nắm xương
dưới váng chau mày khóc
Hòn máu trên
tay mỉm miệng cười.
(Hồ
Xuân Hương)
Gió lọt chòi
canh dao cắt ruột
Hoa thêu cữa
tướng phấn dồi chân
(Khuyết
danh)
Đua chen
trước mắt mây mờ mịt
Đày đoạ sau
thân núi nặng nề
(Tự
Đức)
Những câu thơ lão dẫn chứng là nhớ đâu dẫn đấy. Mà lão
thuộc được như thế là nhờ chúng hay, chúng đẹp, muốn quên cũng khó quên.
-
Thưa lão vườn:
giữa Đoàn Luyện và Bạch Miêu, sự khác biệt dễ nhận thấy, vì một bên điêu trác,
một bên tự nhiên, một bên nồng, một bên đạm. Còn giữa Trang Điểm và Hình Dung,
chúng cháu thấy dường như biên giới không được rõ rệt.
-
Trang Điểm là
dùng điển xưa tích cũ, mượn chữ trong ca dao tục ngữ hoặc trong thơ văn của
người trước, để điểm nhiễm câu thơ của mình cho lời thêm đẹp ý thêm giàu, cũng
như người thợ vẽ dùng màu sắc điêm xuyết cảnh vật trong tranh, người con gái
dùng phấn son vàng ngọc tô điểm cho nhan sắc. Còn Hình Dung là mượn những vật
hữu hình để cụ thể hoá những ý trừu tượng, mượn những vật này thay thế cho vật
kia để cho vật kia vật mình muốn tả được
nổi bật. Trang Điểm là tô dồi cho thêm đẹp. Hình Dung là so sánh cho rõ hơn .
Một ông khách ngồi nghe, cao hứng:
-
Các cô em bảo
rằng giữa Trang Điểm và Hình Dung ranh giới không mấy rõ rệt, quả đúng vậy. Hai
bên cũng đều dụng công chạm trỗ câu văn để cho ý thơ thêm đậm nét. Một bên dùng
cách phấn sức, một bên dùng phép tỷ giảo. Phải rành nghề mới dễ nhận thức. Nếu
không, nhiều khi bị lầm lẫn lại qua.
Ví
dụ câu:
Vũ trích nham
hoa Thần nữ lệ
Phong xao
đình trúc Bá Nha cầm (2)
Thì
thử hỏi, đó là Trang Điểm hay Hình Dung?
Một
cô em nhanh nhảu đáp: - Trang Điểm vì có dùng điển.
Ông khách cười: - Sai rồi! Tuy dùng những tiếng Thần
Nữ, Bá Nha. Song dùng để tỷ dụ chớ không phải để điểm nhiễm. Mưa nhỏ trong
khoảng hoa ngàn, trông đẹp như những giọt lệ của Thần nữ; gió thổi vào nơi sân
trúc, nghe êm như tiếng đàn của Bá Nha. Đàn Bá Nha, lệ Thần Nữ chỉ dùng để làm
nổi bật giọng thanh tao của tiếng gió thổi trúc, vẻ kiều diễm của giọt mưa rưới
hoa.
Lão cười: - Cô em nói là Trang Điểm thì không đúng chớ
không sai.
Khách cự: - Đừng chơi chữ chớ “Không đúng” khác với “sai”
à?
-
Làm thơ cũng là
một cách chơi chữ mà. “Không đúng” và “sai” nghĩa có dị có đồng, song đại đồng
mà tiểu dị, cũng như “Hình Dung và Trang Điểm”. Lão xin hỏi ông bạn: Làm nổi bật
ý thơ cách nào nếu không phải là Trang Điểm cho câu thơ và Trang Điểm câu thơ
làm gì, nếu không phải để làm nổi bật ý thơ? Bởi từ và ý không thể tách rời
nhau.
-
Lão vườn muốn
chiếu bí mình?
-
Không phải muốn
chiếu bí mà muốn làm sáng tỏ vấn đề.
Các thiếu tỏ vẻ vui mừng. Lão tiếp:
-
Hình Dung đôi khi
mượn chữ có sẵn, điển thường dùng. Nhưng điển dùng trong Trang Điểm, ý nghĩa
tương đồng cùng ý nghĩa tác giả muốn diễn tả. Còn điển dùng trong Hình Dung
không cần đến ý nghĩa bên trong mà chỉ cần hình thức bên ngoài. Như Bá Nha
không liên quan chi đến Gió, Thần Nữ không liên quan chi đến Mưa. Danh từ Thần
Nữ, Bá Nha chỉ là danh từ mượn để hình dung cho sự trong trẻo đẹp đẽ, cho sự êm
ái dịu dàng. Chúng đã trở thành những hình dung từ, chớ không còn là điển nữa.
Không ai phản đối. Lão nói thêm:
-
Để cho dễ hiểu, chúng
ra nên tóm tắt như thế này:
Đoàn luyện: đẹp chải chuốt, bóng bẩy.
Bạch miêu: đẹp chân thật , tự nhiên.
Trang điểm: đẹp nhờ khéo dùng điển cố.
Hình dung: đẹp nhờ khéo dùng tỷ giảo.
Khách cười:
-
Nghe xuôi tai tạm
được.
Các thiếu nữ:
-
Xin cho nghe về
THANH.
-
Ngày xưa học về
THANH có phần khó khăn hơn ngày nay. Chữ Hán chữ Nôm không có dấu như chữ Quốc
Ngữ. Để biết tiếng nào là BẰNG tiếng nào là TRẮC, ông cha chúng ta phải dùng
cách “đánh vần”. Ví dụ muốn biết chữ VÂN là bằng hay trắc, thì phải đánh vần: “Vần
vân bằng, vẩn vẫn trắc”. Thế là chữ VẦN và chữ VÂN là tiếng bằng, còn chữ VẤN
và chữ VẬN là tiếng trắc. Thế thì chữ VẨN và chữ VẪN bằng hay trắc? Thì cũng phải đánh vần: “Vần
vân bằng, vẩn vẫn trắc”. Thật phiền phức. Ngày nay nhờ có dấu, chúng ta nhìn
mặt chữ có thể nhận ngay được tiếng bằng trắc: Những chữ không có dấu và có dấu
huyền là tiếng bằng, còn những chữ có dấu sắc nặng hỏi ngã, đều thuộc tiếng
trắc.
Những tiếng bằng tiếng trắc lại chia làm bốn thanh nữa
là Bình, Thượng, Khứ, Nhập.
Để phân biệt 4 thanh này cổ nhân dùng dấu bán nguyệt
vòng ở bên bốn góc chữ:
Thượng Khứ
Bình Nhập
Người mới nhập môn thật khó phân biệt cách làm dấu.
Lại thêm 4 thanh này lại còn chia mỗi thanh ra làm hai: Phù (hay đoản) và trầm
(hay trường). Cho nên việc phân biệt thanh này với thanh kia bằng việc làm dấu
vòng bán nguyệt, không được minh bạch và không túc số. Ngày nay nhờ các dấu,
chúng ta có thể phân biệt một cách rành mạch và dễ dàng:
Thanh BÌNH gồm những chữ không dấu và có dấu huyền
Thanh THƯỢNG gồm những chữ có dấu hỏi và dấu ngã.
Thanh KHỨ gồm những chữ có dấu sắc và dấu nặng.
Thanh NHẬP gồm những những chữ có dấu sắc và dấu nặng
và mẫu âm sau cùng là chữ C, T, P.
Còn về Phù, trầm thì:
PHÙ BÌNH gồm những chữ không dấu,
TRẦM BÌNH gồm những chữ có dấu huyền.
PHÙ THƯỢNG gồm những chữ có dấu hỏi.
TRẦM THƯỢNG gồm những chữ có dấu ngã.
PHÙ KHỨ gồm những câu có dấu sắc,
TRẦM KHỨ gồm những câu có dấu nặng.
PHÙ NHẬP gồm những câu có dấu sắc,
TRẦM NHẬP gồm những câu có dấu nặng.
Phù trầm tức là Nhẹ Nặng, Nổi, Chìm.
Nhìn vào các dấu, đọc lên thành tiếng, chúng ta nhận
thấy ngay nhẹ, nặng, chớ không cần phải nghĩ ngợi, cân nhắc.
Và chúng ta nhận thấy:
Những chữ thuộc tiếng Bằng đều là thanh Bình.
Những chữ thuộc
tiếng trắc gồm 3 thanh Thượng, Khứ, nhập.
Khách làng thơ lại còn chia Bình Thượng Khứ Nhập ra
tiếng Thanh, tiếng trọc, tiếng ức, tiếng dương.
Vương Ngư Dương cho những tiếng Phù là THANH (trong),
những tiếng Trầm là TRỌC (Đục).
Trương Tiêu Đình gọi những tiếng Bình tiếng Khứ là
DƯƠNG (cao), những tiếng Thượng tiếng Nhập là Ức (thấp).
Tiếng THANH và tiếng DƯƠNG đưa vui.
Tiếng TRỌC và tiếng Ức gợi buồn.
Người làm thơ có biện biệt thanh sắc thì thơ mới đẹp
đẽ, êm đềm. Thanh và sắc là hai yếu tố quan trọng để giúp cho lời đạt được ý
một cách chu đáo, và cùng ý gây hương vị cho bài thơ.
Muốn tạo cho câu thơ bài thơ đầy đủ thanh sắc, chẳng
những cần chọn chữ sửa câu cho ổn đáng, mà còn phải biết cấu tạo hình ảnh, phải
biết điều hoà tiết điệu, tức âm nhạc. Một bài thơ, một câu thơ, càng giàu hình
ảnh, giàu âm nhạc bao nhiêu, thì càng có sức truyền cảm có sức trì hứng bấy
nhiêu.
Cổ nhân ra công thôi xao từ điệu là cốt tạo cho thơ
được đầy đủ thanh sắc.
Nhưng chỉ có thanh có sắc mà không có ý thì vị sẽ kém.
Cũng như người con gái hát hay vẻ đẹp mà thiếu đức hạnh, khiến người đời chỉ
coi là một món đồ chơi dùng để làm vui tai mắt nhất trong thời chớ không quí trọng.
Cho nên cổ nhân thường dạy: Trước khi thôi xao từ
điệu, thì phải lo uẩn nhưỡng tâm tư. Tức là trước khi tập làm thơ thì phải lo
sống, sống với ngoại cảnh, sống với nội tâm, tức là phải hàm dưỡng, phải huân
tập…, hàm dưỡng những gì mình thu thập, huân tập những gì mình đã súc tích. Khi
tâm hồn mình đã thật sung dũ, đã thật phong phú rồi mới lo điêu trác từ chương.
Các thiếu nữ ra về, ông khách trách:
-
Lão vườn nói chuyện
thơ mà không nhắm đối tượng! Các nữ học sinh kia, trình độ nhận thức đã được
bao lăm mà lão vườn giảng nhiều điều chỉ có bọn nhà thơ chúng ta lãnh hội được.
-
Ông bạn chớ khinh
thường đám trẻ. Các cô ấy đều là tú tài bán, tú tài toàn cả đấy. Những học sinh
đến thăm vườn, nam cũng như nữ, đều là các em từ đệ tứ niên trở lên. Một đôi
khi có cả sinh viên nữa. Ở trường các em đã học nhiều về thơ. Những điều lão
nói phần nhiều chỉ để làm sáng tỏ thêm hoặc bổ túc đôi chút những gì các em đã
học được. Còn đối với những người đã rành nghề thơ như ông bạn, thì lão đâu dám
múa rìu…
-
Đừng nguỵ tốn mà
bị đòn chừ. Hãy cho mình biết thêm điều này mà lâu nay chưa tự minh biện được,
song không biết hỏi ai. Nay nhân Lão Vườn giảng về thanh sắc nghe khá xuôi tai,
thì chắc có thể cởi mở dùm những thắc mắc ấy được, nếu không nhiều thì ít, chớ
không đền nỗi toàn vô.
-
Mong được “cho
xem”.
-
Vương Ngư Dương
chủ trương “Thần vận”, Viên Tử Tài chủ trương “Tính linh”. Triệu Chấp Tín chủ
trương “Thanh điệu”, Trầm Đức Tiềm chủ trương “Cách điệu”.
Giữa Thần Vận và Tính Linh, ranh giới dễ nhận, vì một
bên chú trọng từ điệu, một bên chú trọng tánh tình.
Còn giữa Cách điệu và Thanh điệu thì lấy gì để phân
biệt cho rành mạch rõ ràng?
-
Họ Triệu nặng về
Thanh. Họ Trầm nặng về sắc. Họ Triệu bảo thơ hay nhờ âm nhạc điều hoà. Họ Trầm
cho thơ hay nhờ phép tắc nghiêm chỉnh. Họ Trầm thường nói: “Thơ quí ở tính
tình, nhưng cần phải có phép tắc, nếu bối rối lộn xộn không tằng không thứ,
không phải là thơ”. Như thế Trầm tuy không chủ trương Cách điệu nhưng vẫn trọng
tánh linh. Cũng như họ Viên tuy chủ trương Tánh linh, nhưng vẫn không xem khinh
thanh vận cách luật. Viên chê người đương thời mắc phải ba bệnh mà không tự
biết:
-
Dùng điển quá
nhiều, thành ra thơ đầy tử khí,
-
Thiếu uẩn súc,
thành ra thơ không có chiều sâu,
-
Quá chú trọng đến
thanh điệu, lấy bằng trắc mà định giá trị của thơ.
Đó là Viên chỉ trích:
-
Trang điểm thái
quá.
-
Bạch miêu thái
quá,
-
Đoàn luyện thái
quá.
Nói một cách khác là một bài thơ hoàn toàn phải gồm đủ
ba yếu tố: Tình, Hình, Thanh.
Các đại gia Văn Chương, kẻ nặng mặt nầy, kẻ nặng mặt
khác, chớ thơ của họ thường thường đều gồm đủ 3 yếu tố kia.
Tánh linh thuộc về tình,
Cách luật tức phép tắc thuộc về hình.
Âm điệu thuộc về thanh.
Thử tìm sách đọc kỹ thơ của Vương Ngư Dương, Viên Tử
Tài, Triệu Chấp Tín, Trầm Đức Tiềm, tuy chủ trương khác nhau, mà những bài thật
hay, của các nhà ấy có bài nào thiếu yếu tố nào trên 3 yếu tố kia chăng?
Đời Thanh, sau các thi nhân Vương, Viên, Triệu, Trầm,
còn một nhà nữa cũng đáng cho người học thơ noi gương là HOÀNG CẢNH NHÂN.
Họ Hoàng vừa theo thuyết tánh linh của Viên Mai vừa
theo thuyết thần vận của Vương Sỹ Trinh.
Chúng ta nên bắt chước họ Hoàng để cho thơ làm ra, nội
dung cũng như ngoại diện, cách luật cũng như thanh điệu, được tương y tương
xứng.
Khách: - Như thế là phải. Hoa có sắc không hương, có
hương không sắc, sao bằng gồm đủ sắc hương, người đủ dung, công, hạnh, mà tiếng
nói ngọng nghịu khó nghe, sao bằng gồm đủ cả tứ đức.
Đưa khách ra về, lão thêm:
-
Thi học như Sông
Cửu Long, chúng ta như con chuột nhắt bò bên bờ uống nước mỗi ngày…
-
Vâng chỉ uống cho
đỡ khát đó thôi, chớ uống thế nào cạn được hết con sông từ Trung Hoa chảy sang
Việt Nam yêu kính.
_________________________________________________________________________________
(1) Chữ các nhà nho Bình Định
thường dùng để ám chỉ đám tân học thiếu lễ độ.
(2) Nghĩa là: Mưa rơi trong
khoảng sườn non hoa nở trông trong trẻo đẹp đẽ như nước mắt của Thần Nữ; Gió
thổi nơi sân trúc nghe êm ái thanh thoát như tiếng đàn của Bá Nha. (Xem thêm
chương H: Thơ Xuân Vườn Cũ).