Trong vườn hoa thơ Bài 7-Đôi vần hoa xưa


ĐÔI VẦN HOA XƯA

Ông bạn Vân Đình cùng một một bạn thanh niên đến Vườn Hoa Thơ trách Lão Giữ Vườn:
-      Dường như Lão Giữ Vườn có ý muốn phục hưng thơ chữ Hán?
-    Chữ Hán, chẳng những ở Việt Nam mà ở nhiều nước khác cõi Á Châu đồng văn cùng  Việt Nam, đã bị coi là “món đồ cổ” rồi. Tôi làm sao mà phục hưng nổi.
-      Đã biết vậy, sao lâu nay trong Vườn Hoa Thơ chỉ thấy chưng bày toàn thơ chữ Hán? Trong Vườn thơ Việt Nam không có hoa thơm cỏ lạ hay sao?
-      Sao lại không? Nhưng “tuần tự nhi tiến”, và “ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Thơ Việt Nam ngày nay được hoa lệ phong phú, phần lớn là nhờ chữ Hán. Cho nên Lão nói thơ chữ Hán trước khi nói đến thơ chữ Việt, là có ý “ẩm thuỷ tư nguyên”.
Ông bạn thanh niên nói:
-      Đám thanh niên chúng cháu hiện nay, hầu hết đều dốt chữ Hán. Cho nên không nhiều người thích thơ chữ Hán.
Bạn Vân Đình tiếp:
-      Chẳng những không thích thơ chữ Hán, mà cả những thơ chữ Việt làm theo luật thơ Đường cũng đều bị bạn trẻ được kỳ thị. Muốn cho những hoa thơ chưng bày nơi vườn Lão được giới thiệu thanh niên chú ý thì Lão Giữ Vườn nên theo thị hiếu của thời đại.
Lão cười:
- Người thời nay, nhất là giới thanh niên, thích thơ Mới, thơ Tự Do hơn thơ luật. Nhưng không vì hoa oeillet, glaieul, hoa hường Đà Lạt… bán được đắt giá và dễ dàng mà Lão phụ hoa mai, hoa cúc, hoa lan, hoa tường vi…. Mọc nơi rừng sâu, dậu vắng, hang thẳm, vườn quê… Chẳng những lão không phụ mà lão còn yêu quí, nâng niu hơn cả hoa nước ngoài đem trồng nơi Đà Lạt đắc địa, nơi vườn giàu sang sẵn phân sẵn nước.
Bạn Vân Đình hỏi:
-      Như thế Lão Vườn chú trọng đến thơ Đường Luật hơn các thể khác mà làng thơ hiện đại ưa dùng?
-      Không đúng lắm. Trong Vườn Hoa Thơ, lão đón tiếp tất cả các bạn trồng hoa thiếu “đất dụng võ”, không phân biệt cũ mới. Những nhà thơ cũ như Đông Hồ, Bùi Khánh Đản…, những nhà thơ mới như Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa..., là những nhà “cự phú”, vườn ruộng cò bay, tất không bao giờ để chân để mặt đến thẻo vườn cỏn con và hẻo lánh này. Bởi vậy các bạn “hàn sỹ” trồng hoa đều là khách quí của Vườn Hoa Thơ lão giữ, và lão sẵn sàng dành chỗ để chưng bày những đoá hoa những khóm hoa có sắc có hương.
Ông bạn thanh niên đề nghị:
-      Vì chưa rõ chủ trương của Bác nên khách làm thơ “không đất dụng võ” chắc chưa gởi hoa đến cho Vườn. Vậy xin đề nghị bác chưng bày cho xem một ít danh hoa của cổ nhân mà lâu nay sách báo quốc âm ít đề cập đến. Cháu đoán chắc trước  khi mở vườn bác đã tích trữ được nhiều. Nhân tiện xin bác cho biết qua tánh chất của mỗi loại hoa xưa còn được lưu thế.
-      Vườn mới mở còn nhiều đất hoang, thể lời ông bạn. Lão xin múa gậy thử. Nhưng vì vườn tuy còn nhiều đất hoang song phạm vi không được rộng và thì giờ của các bạn cũng như của lão không hơn chi phạm vi của vườn, nên lão chỉ xin nói về hoa Đường Luật và nói một cách “trói voi bỏ rọ” để mua vui mà thôi:
Thể thơ Đường luật được áp dụng trong làng thơ Quốc âm mới từ đời Trần (1225 -1400). Người khởi xướng là Hàn Thuyên, nên thơ Quốc âm làm theo thể Đường Luật thường gọi là Thơ Hàn Luật.
Đề 1 tập thơ quốc âm làm theo thể Đường luật , một nhà thơ cận đại có câu:
Vơ vẩn tơ vương hồn Đại Việt
Thanh tao thép luộc giọng Hàn Thuyên.
Thơ quốc âm đời Trần còn truyền tụng không được mấy Lão được đọc một số thơ mượn tích Chiêu Quân Cống Hồ để chỉ trích việc vua Trần Nhân Tông gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân, và một ít thơ của vua Hậu Trần Trùng Quang Trần Quí Khoách cùng nghĩa sỹ Nguyễn Biểu. Văn chương phần nhiều có vẻ chất phác. Đó là những đoá hoa có sắc có hương, song sắc hương không mấy nồng nàn thắm đượm. Lão có thể ví với hoa vạn thọ, hoa ngâu.
Đó là tánh chất tổng quát, chớ đi vào chi tiết thì cũng có lắm câu rất điêu luyện. Như câu:
Lãng uyển Xuân tàn tin én dứt
Hành dương non thẳm chiếc nhàn khơi
Trong bài nói về Vương Tường, tức Chiêu Quân rời Cung Hán sang đất Hồ. Chỉ vài nét chấm phá mà gợi không biết bao nhiêu tình bao nhiêu cảnh, khiến lòng người đọc cùng người trong cuộc sanh trăm mối buồn thương.
Lại như câu:
Quanh tường một bức khăn là rủ
Treo nguyệt ba canh bóng quế cao
Trong bài tả cảnh Vương Tường tự ải. Tả cảnh thắt cổ đến như thế là tuyệt diệu. Lối văn ảnh tượng sử dụng thật đã đến mức tinh vi.
Cũng thuộc hàng giai tác, câu:
Chiếu phụng mươi hàng tơ cặn kẽ
Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.
Trong  bài thơ vua Trùng Quang tặng sứ giả Nguyễn Biểu, và câu của Nguyễn Biểu hoạ vận thơ vua Trùng Quang:
Đường mây vó ký lần lần trải
Ai tuyết cờ mao thức thức pha.
Thơ đời Lê ( 1428 -1788) còn truyền được nhiều hơn thơ đời Trần.
Thơ đời Trần chịu ảnh hưởng thơ Trung Hoa sâu đậm. Lời thơ có phần nặng nề và điển tích dùng có hơi lạm. Thơ đời Lê tiến bộ hơn. Văn chương đã nhẹ nhàng trôi chảy, nhưng vẫn còn giữ vẻ chất phác của tiền triều.
Đời Lê có 3 nhà thơ tiêu biểu.
-      Nguyễn Trãi với Quốc Âm thi tập,
-      Lê Thánh Tông với Hồng Đức Quốc Âm thi tập
-      Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập.
Lão sánh thơ Nguyễn Trãi với hoa Dã Cúc (Chrysanthème sauvage), thơ Lê Thánh Tông với hoa Thục Quì tức hoa Hướng dương (Tournesol), thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm với hoa Điệp (papilionacé).
Thơ Hàn Luật của Nguyễn Trãi ít được phổ biến. Trong các sách giáo khoa và các tập thi tuyển, hầu hết chỉ nói đến những bài Gia Huấn Ca làm theo thể Lục Bát và Song Thất Lục Bát. Lão xin giới thiệu một ít thơ Hàn Luật mà lão đã thuộc vì có nhiều chất thơ:
-  Hương cách gác vân thu lạnh lạnh,
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh

-  Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc
Ngày vắng chim kêu dưới khóm hoa.

-  Bến liễu mới dời thuyền đón nguyệt,
Gác vân còn chứa bút đeo hương.

-   Lòng một tấc son còn nhớ chúa
Tóc hai phần bạc bởi thương thu.

-   Một thân lẩn quẩn đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia.

-   Sách cũ ngày tìm người hữu đạo
Trì thanh đêm quyến nguyệt vô tâm.
Vân vân…

Thơ vua Lê Thánh Tông được truyền tụng là những bài Vịnh Thằng Bồ Nhìn, vịnh Cây Chổi, vịnh Thằng Mõ, v..v…mà có nhiều người cho là “có khí tượng đế vương”. Ngoài ra còn nhiều giai tác mà vị thơ không bị khẩu khí vua chúa làm hư hao.
Có nhiều câu trác luyện. Như Điếu Lê Khôi:
Tể tướng bếp tàn mai lạnh vạc
Tương quân doanh vắng liễu chau mày.
Như Vịnh làng Tam Chế:
Mênh mang khóm nước nhuộm màu lam
Chất ngất đỉnh non lồng bóng quế
Như đề Chùa Quang Khánh xã Dưỡng Mông:
Dòng thanh rẽ rẽ trần hiêu quạnh
Gác thẳm làu làu ngọc giá đông
Sực mức đưa hương hoa mượn gió
Líu lo chào khách vẹt thay đồng.
Vân vân…

Thơ của Lê Thánh Tông phần nhiều chép trong Hồng Đức Quốc Âm thi tập và một số ít chép trong các sách thi tuyển và ghi ở các bia.
Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi tập, ngoài thơ vua Lê Thánh Tông còn có thơ nhiều người khác không biết tên. Có nhiều bài văn lưu loát chẳng kém văn đời nay. Như:

VỊNH CANH MỘT
Chập tối trời vừa mọc đẩu tinh
Ban khi trống một mới thâu canh
Đầu nhà khói toả lồng sương bạc
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh
Tuần điếm kìa ai khua mõ cá
Dâng hương nọ kẻ nện chày kình
Nhà Nam nhà Bắc đều no mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.

VỊNH MỴ Ê
Thờ chúa thờ chồng hết tấc thương
Một mình trọn đạo việc cương thường
Non thiêng dễ hoá hồn Tinh Vệ
Nước biếc khôn nhìn mặt Phạm Vương
Dòng bạc thề cùng thu có nguyệt
Sử xanh chép để bút còn hương
    Rày mừng thấy tin rồng đến
    Phủ mưa đào khắp bốn phương.
Vân vân…..
Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được nhiều sách chép nên đã phổ cập khắp làng phong nhã trong nước. Những khách yêu thơ, không mấy ai không thuộc những câu đã trở thành tục ngữ, như:
-      Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết áo hết ông tôi

-      Thớt có tanh tao ruồi đến đỗ
Gang không mật mỡ kiến bò chi.

-      Nhuỵ kết hoa thơm ong đến đỗ
Mỡ bùi mật ngọt kiến nào đi.
Vân vân….
Không mấy ai không thuộc những câu vịnh cảnh nhàn:
-      Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao.

-      Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.

-      Niềm xưa trung ái thề không phụ
Cảnh cũ điền viên thú đã quen.
Vân vân…

Trong tập Bạch Vân, cũng như trong Hồng Đức và trong Quốc âm của Ức Trai, thường thấy những bài thơ câu 6 chữ chen lẫn cùng câu 7 chữ. Đó là lối thơ Lục Ngôn thịnh hành ở đời Lê (2). Như:
Đạo thánh hiền hay mến khó khăn
Quyền môn chốn ấy biến chen chân
Hứng phong nguyệt chè ba chén
Thú thanh nhàn lều một căn.
Quét cữa Nho chờ khách đến
Trồng cây đức để con ăn.
Được thua phú quí dù Thiên mệnh
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn.
                                                                                (Bạch Vân)

Từ NGUYỄN TRÃI đến NGUYỄN BỈNH KHIÊM thơ Hàn Luật đã bước được nhiều bước khá dài.
-      Chữ dùng đã thành thục,
-      Âm điệu đã nhịp nhàng,
-      Câu thơ đã hết vẻ ngượng ngập, trái trấp mà trong thơ Ức Trai và Hồng Đức thường vấp phải.
Nhưng thơ của ba nhà đều mang tánh cách chung là:
-       Thiên về lý trí và đạo đức,
-       Còn giữ vẻ chất phác hoặc ít hoặc nhiều,
-      Sử dụng cảnh vật theo quan niệm cổ điển,
-      Dùng nhiều chữ mà hiện nay không còn phổ biến. (3)
Ngoài ba tập thơ thượng dẫn, nhà Lê còn để lại hai tác phẩm lớn là Tô Công Phụng Sứ, và Lâm Tuyền Kỳ Ngộ.
Đây cũng là hai tập truyện bằng thơ Đường Luật như tập Vương Tường đời Trần.
TÔ CÔNG PHỤNG SỨ nói về tích Tô Võ đi sứ Hung Nô bị bắt đày lên núi tuyết chăn dê.
LÂM TUYỀN KỲ NGỘ là chuyện Bạch Viên kết duyên cùng Tôn Các. (4) Văn chương hai tập thơ này có phần lưu loát hơn tập Vương Tường, song không có câu xuất sắc như Vương Tường. Tập Tô Công thiêng về đạo đức. Tập Lâm Tuyền đã mang nhiều tính chất tình cảm, nên mùi vị bớt khô khan.
Xin giới thiệu đôi vận:
-      Tuy vui yến nhạc nơi Hồ điện
    Hằng tưởng uy nghi thuở Hán đình.

-      Mây núi Bắc tan gương quế rạng
    Sương trời Tây đến tiết tùng cao.

-      Bể Bắc năm chầy dê chửa đẻ
    Trời Nam nẻo diễn nhạn không thông.

-      Hao chữ cần lao non Thái nặng
    Một niềm ưa ái bóng thu trong.
                                                           (Tô Công Phụng Sứ)

-      Sen phô đáy nước lồng gương nguyệt
    Cúc nhiễu chân thềm lẫn vẻ sao.
    Hoa đỡ long lanh rèm bích ngọc
    Hương đưa sực nức gác quỳnh dao.

-      Kết tóc về đâu duyên gắn bó
    Xe tơ nên nỗi nghĩa riêng tây
    Trải từ gặp gỡ bao thu ấy
    Sớm đã nâng niu những đứa nầy.

-      Rừng thẳm buồn trông mây lác đác
    Non xanh thẹn thấy nhạn bơ vơ.

-      Nửa gối mơ màng tim điệp rủ
    Năm canh mong mỏi sứ hồng bay
                                                  (Lâm Tuyền Kỳ Ngộ)
Đó là những đoá hoa rừng, nhựa sống có thừa, song hương sắc chưa đủ say lòng người thưởng thức.
Vân Đình:
-   Thơ Hàn Luật vì là giống Trung Hoa đưa sang, phải đợi lâu ngày cho hạp thuỷ thổ mới trở thành giống hoa Việt Nam hoàn toàn, mới đơm hoa trỗ sắc nồng đượm. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như thơ Lục Bát Song Thất Lục là giống hoa của đất nước, sản xuất từ  những câu tục ngữ ca dao, xin hỏi lão vườn hai thể “ quốc nội” ấy ở đời Trần đời Lê có được phát đạt lắm chăng ?
Lão cười :;
-   Lão đâu phải nhà viết văn học sử mà hỏi những điều cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng mới có thể phát biểu được chính xá. Nhưng lão cũng xin thưa những gì lão biết, một cách tổng quát và đơn sơ:
Về ca dao nhiều sách báo đã nói nhiều rồi. Xin miễn bàn. Lão chỉ xin nói qua về các tác phẩm còn lưu thế.
-   Đời Trần thì có TRINH THỬ TRUYỆN mượn chuyện một con chuột bạch biết giữ trọn trinh tiết với chồng.
Đây là một bài ngụ ngôn trường thiên làm vào khoảng niên hiệu Long Khánh ( Trần Duệ Tông – 1374 1377), ngụ ý chỉ trích HỒ Quí Ly. Văn làm theo thể Lục Bát.
Theo cụ Bùi Kỷ thì tác giả là nhà xử sỹ Hồ Huyền Qui. Nhưng các nhà khảo cứu văn học chưa tìm ra lai lịch của nhà xử sỹ ấy.
-    Đời Lê thì có Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi. Làm từng bài một, theo thể lục bát có song thất lục bát có.
Ngoài Nguyễn Trãi còn có Lê Đức Mao. Họ Lê có một bài  làm cho ả đào hát chúc làng vào những ngày hội xuân. Bài gồm 128 vế, khi thì song thất lục bát, khi thì lục bát, thỉnh thoảng lại chen đôi câu nói lối, hoặc ngũ ngôn, thất  ngôn Đường Luật.
-      Đời Mạc có Hoàng Sỹ Khải còn để lại bài Tứ Thời Khúc Vịnh gồm 340 vế làm theo thể song thất lục bát.
Những áng văn chương ấy lời vẫn còn nặng và lắm chỗ có phần quê vụng. Sánh với thể Đường Luật thấy cũng không hơn gì.
Thử trích đôi câu làm mẫu:
Bỗng nghe bên cội bích đào
Tiếng con muông sủa bào hao rậy ràng
Chẳng là chuột bạch bên tường
Cong đuôi mà chạy vội vàng hãi kinh….
                                                                                (Trinh Thử  truyện)
Thấy ai đói rét thì thương
Rét thì cho mặc đói thường cho ăn
Thương người như thể thương thân
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo đem ra
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên…
May ta ở chốn bình yên
Nhà người tàn phá chẳng nên cầm lòng
                                                                               (Gia Huấn Ca)
Xuân nhật tảo khai gia cát hội
Hạ đình thông xuống thái bình âm
Tàng câu mở tiệc năm năm
Miếu Chu đối việc chăm chăm tấc thành
Hương dâng ngào ngạt mùi thanh
Loan bay khúc múa hoa quanh tiệc ngồi….
                                                                               (Lê Đức Mao)
Thiều quang đến, lòng người hớn hở
Thuở ba dương là cỡ lập xuân
Đâu đâu chịu lệnh đông quân
Cữa Giao lừng lẫy đón xuân rước về
Khắp tư bề non sông hoa cỏ
Hết cùng lên cõi Thọ đài Xuân
Nhà nhà tống cựu nghinh tân
Tú mi là thiếp nghi Xuân là bùa……
                                                                           (Tứ Thời Khúc Vịnh)
Ông bạn thanh niên:
-  Nghe khô khan quá!
Lão cười :
-  Thì lão đã nói thơ Lục Bát và Song Thất Lục Bát đời Trần Lê không hơn thơ Đường Luật. Như thế đâu có phải tại thể thơ. Thể thơ một khi vào tay lão luyện thì “quốc nội” hay “quốc ngoại” gì cũng đều trở thành những lợi khí sắc bén như đao kiếm vào tay kẻ võ nghệ cao cường.
Vân Đình ngắt lời lão:
-  Như vậy chẳng là các thi nhân đời Trần đời Lê, nghệ thuật làm thơ chưa được tinh luyện ?
-  Không thể bảo nghệ thuật làm thơ chưa tinh luyện. Nghệ thuật của quí ngài rất tinh luyện, nhưng vì quí ngài quen sử dụng Hán tự nên khi bước sang quốc âm bị ngỡ ngàng ngượng ngập. Cũng như người Việt Nam được nuôi dưỡng từ thuở bé theo lối sống Tây Phương, lớn lên ra giao thiệp cùng đồng bào trông lúng túng như người phương xa mới đến.
-  Thời vua Lê chúa Trịnh thơ quốc âm có tiến bộ hơn chăng?
-  Những áng văn chương còn truyền lại, như những tập thơ của chúa Trịnh, lão xem vẫn không hơn gì đời Trần đời Lê. Chất thơ vẫn chưa đầy đọng, vị thơ chưa được đượm nồng. Phải đợi đến thời Lê mạt Nguyễn sơ văn chương quốc âm mới phát đạt và đến Thịnh Nguyễn mới toàn thịnh. Thời này hoa thơ trong vườn quốc âm mới có hải đường, thược dược, tường vi, mẫu đơn…, mới có cúc đại đóa, cúc Tây Thi, cúc bạch ngọc, mới có sen hồng sen trắng, mới có hoa hồng vàng hoa hồng điều hoa hồng tím, mới có hoa anh đào nở nơi nao cao, hoa ngô đồng nở trước lăng miếu….
Ông bạn thanh niên:
-  Xin cho biết một ít giống mà lão vườn có sẵn trong tay.
-  Những danh hoa Lê mạt Nguyễn sơ lão có, thiên hạ đều có, vì các cô hàng hoa đã chiết trồng và hái bán khắp thành thị thôn quê.
Vân Đình:
-      Nhưng chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. Lão Vườn thử cho nghe tôn ý.
-      Lão cùng nói cùng bạn quen thân:
Hoa là Thơ của Đất. Thơ là Hoa của Người. Cho nên Thơ cũng như  hoa, có trăm hình nghìn sắc và muôn hương.
Ca dao có câu:
Chơi hoa cho biết mùi hoa
Hoa lang tim tím hoa cà xanh xanh.
Và dưới mắt thi nhân:
Hoa nào hoa lại không hương sắc
Một cánh hoa tươi một mảnh tình.
Đó là Hoa mà cũng là Thơ, tức là Hoa Thơ hay Thơ Hoa.
Những giai phẩm của Trần, Lê , Mạc, Trịnh như trên đã nói, là hoa nội hoa rừng, sức sống dồi dào mạnh mẽ, nhưng hương thơm sắc đẹp chưa quyến rũ lòng khách tài tử yêu hoa.

Khoái mặt khoái tâm là Hoa Thơ cận đại:
- Thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du là những luống hoa hường nhiều hương nhiều sắc, lóng lánh sương mai dưới một bầu trời nửa mờ nửa sáng.
- Thơ Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm là vườn hoa đào nở hồng trong màn mưa phùn trắng nhẹ bay theo chiều gió lành lạnh lúc hừng đông.
- Thơ Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như hầu là những gốc mai già cổ kính đầy hoa xuân, đứng soi mình trong dòng suối chảy róc rách, và đưa mùi hương lành lạnh bay chập chờn dưới bóng trăng lồng bóng hoàng hôn.
- Thơ bà Huyện Thanh Quan là những đóa mẫu đơn cắm trong bình Khang Hy để nơi phòng khách, vừa nồng diệm vừa trang nghiêm, như một giai nhân ngồi đốt trầm đọc sách.
- Thơ Tam Nguyên Yên Đỗ là những khóm cúc vàng cúc trắng nở trong sương nơi dạu vắng, hay trồng trong chậu sứ cổ chốn phòng văn, nhã đạm và thanh cao, như tao nhân đứng tựa bên rào trúc.
- Thơ Tôn Thọ Tường là những nhánh tường vi ló ra ngoài tường cạnh đường ít người qua lại, nửa khoe khoang nửa khép nép, thật duyên dáng mặn mà.
- Thơ Chu Mạnh Trinh là hoa anh đào quyến gió xuân, thướt tha yểu điệu, như cô tình nhân có giáo dục, âu yếm nhưng không chút lả lơi.
- Thơ Hồ Xuân Hương là hoa Hoè nở trước sân rồng, sắc vàng chói ngời ánh nắng hạ, ngạo nghễ mà ung dung, thỉnh thoảng tuôn cánh úng nhuỵ tàn lên tóc râu những hàng đai vàng mũ bạc.
- Thơ Chiêu Lỳ Phạm Thái là những khóm ngô đồng nở hoa trước lăng vua Tự Đức, dịu dàng nhưng hiên ngang và cương dõng, như một nữ hiệp tuyêt sắc đương vút mình tung kiếm giữa không trung.
Vân vân…

Đại khái là thế. Nhưng trong vườn tường vi vẫn có mai có cúc, trong vườn lan cúc vẫn có mẫu đơn hải đường….
Ví dụ bên cạnh những câu thơ kỳ cổ trong Cung Oán Ngâm Khúc:
Cầu thệ thuỷ nằm trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy

Vẫn có những câu nùng diệm và phong tình đến nỗi những người luôn có bóng dáng ông thánh ông hiền ở trước mặt cũng phải mường tượng mơ màng:
Cái đêm hôm ấy hôm gì
Bóng dương lồng bóng đêm trập trùng.
  Liền thược dược mơ màng thuỵ vũ
Đoá hải đường thức ngủ xuân tiêu
Cành xuân hoa chúm chím chào
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió
Ao vũ kia lấp ló trong trăng
Sanh ca mấy khúc vang lừng
Cái thân Tây tử lên chừng điện Tô
Đệm hồng thuý thơm tho mùi xạ
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh
Mây mưa mấy giọt chung tình
Đình Trầm hương khoá một cành mẫu đơn

Và câu luận trong bài Khóc Quan Phủ Vĩnh Tường, mà các nhà soạn những tập thi tuyển thường lấy một câu khác thay vào:
Nắm xương dưới váng châu mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười (1)
Là một đoá quỳnh hoa nhuỵ vàng cánh tuyết, chờn vờn dưới bóng trăng giữa lúc trời khuya lành lạnh, nửa như hư nửa như thiệt, hồn Đạm Tiên trong mộng Thuý Kiều.
Đó là ý kiến phát biểu với tấm lòng yêu thơ và lòng kính trọng người trước. Chắc không khỏi chủ quan. Song nghĩ sao nói vậy, thấy sao nói vậy, thương được nhờ ơn ghét cũng nhờ.
Vân Đình:
-  Bá nhân bá y, bận chi ghét cùng thương. Xin hỏi lão các bậc tiền bối sở trường về Lục Bát Song Thất Lục Bát có sở trường về Đường Luật và các vị sở trường về Đường Luật có sở trường về hai thể kia chăng?
-  Cụ Nguyễn Du, bà Đoàn Thị Điểm không thấy có thơ Đường Luật về Quốc âm lưu truyền. Nhưng thơ Hán Văn thì rất nhiều. Bà Huyện Thanh Quan và Tôn Thọ Tường không thấy có thơ lục bát và song thất lục bát. Các vị thơ Đường Luật khác thì vẫn có kẻ ít người nhiều. Như Phạm Thái, Nguyễn Khuyến thì có nhiều, Chu Mạnh Trinh, Hồ Xuân Hương… có ít.
Riêng về Ôn Như Hầu thì còn lại một tập thơ Đường Luật nhan đề là Ôn Như Hầu Thi tập. Lão nhớ được một ít câu:
Gió lọt kẽ mành lưng gió dẹp
Trăng lồng cửa sổ mặt trăng vuông.
                                                   (Tức cảnh)
Dế gọi người nằm thiên cổ dậy
Sương trùm cảnh đứng tứ canh đi.
                                                   (Canh tư)
Câu trên có tánh cách tiểu xảo, câu dưới vế trên hay. Vế đưới có phần gượng gạo, nhất là chữ “tứ canh”. Không bằng những câu:
Man mác cảnh đâu ngoài vạn dặm
Bâng khuâng sự những mấy trăm năm.
                                                   (Nghe dế kêu)
Trú dạ mênh mang thuyền hạo kiếp
Cổ kim man mác võng huyền cơ.
                                                   (Nhân thế)
Thật là những đoá hoa sen nở trong ao nghìn mẫu của một ngôi chùa cổ thâm u.
Bạn thanh niên:
-      Chúng cháu ưa chuộng mới thật. Nhưng những đoá hoa thơ như những đoá bác đã chưng bày làm cho cháu thích thú có kém gì hoa oeillet, Glaieul, mimosa… Dalat. Nghiệt nỗi những thơ Đường Luật mà chúng cháu thường gặp, cổ cũng như kim, hầu hết đều không tươi bằng hoa nở ngày, hoa vạn thọ, thì bảo chúng cháu không đi tìm giống ngoại quốc sao đành?
Lão biểu đồng. Vân Đình hỏi:
-      Ngoài quí vị đã kể trên, thời Thịnh Nguyễn còn nhà thơ nào đã đi đến diệu xứ nữa chăng?
-      Còn nhiều. Lục bát và song thất thì có cụ Tú Nguyễn Diêu, cụ Đào Tấn… ở Bình Định. Đường Luật thì có Tương An Quận Vương, con vua Minh Mạng.
Có dịp, lão sẽ xin đưa quí bạn đến xem vườn hoa của quí vị Tiền Bối này, những vườn hoa đầy hương sắc, nhất là vườn cụ Đào Tấn rộng hàng trăm mẫu mà trước kia vua Tự Đức đã hết lời ban khen.

Giờ đây chỉ xin giới thiệu một vài đoá lão đã hái cho Vườn Hoa Thơ của nhà:
Xông lướt chân trời nhẹ nhẹ
Đoái cung thiềm điện quế xa xa
Gấm thêu mấy thức yên hà
Giang san một bức trời đà vẽ nên
Rước người hoa chẳng biết tên
Hơi hương đưa thấu vào rèm gió trăng.
                                         (Nguyễn Diêu)
Hồ động phăng phăng lối cũ
Việc nhãn tiền tán tụ chòm mây
La Phù một giấc hay hay
Bóng trêu thu nguyệt mùi gây xuân sầu
Thuyền đâu trăng nước đâu đâu ?
Màu lam thoát đã về cầu thần tiên
                                         (Đào Tấn)
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dạu cúc nảy chồi sương
                               (Thu cảm - Tương An)
Thảm lấp Phủ Câu sông một giải
Sầu giăng Long Thọ núi liền giây.
                               (Thiên Mụ cảm tác - Tương An)
Đuốc ngọc canh khuya trời một góc
Vườn đào thề cũ ruột trăm chiều
                               (Quan Vũ - Tương An)

Tương An Quận Vương chẳng những tài về Đường Luật mà lục bát và song thất cũng rất tài:
-  Khối sầu ai đắp nên thành
Giao chen đũa ngọc tằm đoanh khúc vàng

-  Phân tay bốn giọt lệ tình
Lầu cao trăm thước xem mình như không.

-  Lạ thay màn tuyết trương chiên
Giấc phong trần để cho duyên lạnh lùng.

-  Bốn giây ứa máu tỳ bà
Ngỡ ngàng trăng Hán phôi pha gió Hồ.

-  Chốn chiến trường đống xương trắng nhẻ
Người diễn khơi hồn ghé khuê môn
Chơi vơi sóng phủ sầu dồn
Mượn câu tinh vệ chiêu hồn đại phu
                                                                                     (Hoài Cổ Ngâm)

Đó, theo lão, là những đoá thược dược ngậm xưa xuân, những đoá hải đường ngủ nơi đình Trầm hương khoá.
Ông bạn thanh niên:
-  Cháu đã học xong chương trình phổ thông đệ nhị cấp. Cháu cũng đã xem nhiều sách in thơ xưa. Nhưng cháu không thấy các giáo sư quốc văn đề cập tới các thi nhân tiền bối Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Tương An Quận Vương. Cháu cũng không thấy tập thi tuyển nào in thơ của quí vị!
-  Không có gì lạ. Cơ quan đầu não của nền văn hoá Giáo Dục Việt Nam, các nhà thơ viết văn học sử, các nhà sưu tầm văn thơ cổ…, thời Tiền Chiến Hà Nội, thời Hậu Chiến Sài Gòn, các quí vị kia cũng như nhiều vị có tác phẩm lưu thế khác ở lại Trung Việt. Nếu Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn giữ bộ Giáo Dục được vài ba năm thì lão chắc thi ca quốc âm của Trung Việt cũng được khai thác như Bắc Việt và Nam Việt. Người có tài, có tâm thường không có quyền thế, không có phương tiện, còn người có quyền thế có phương tiện thì thường không có tâm hoặc không có tài. Cho nên nền văn học cổ của nước nhà đành chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn, mặc dù tài liệu rất dồi dào.
-  Vậy bác gắng đảm đương việc sưu tập và công bố trên Vườn Hoa Thơ những giai phẩm của Trung Việt.
-  Sức người có hạn, phạm vi Vườn Hoa cũng có hạn. Thêm nữa vườn ở nơi hẻo lánh, người sống trong cảnh lẻ loi. Biết làm sao được?
Vân Đình:
-  Ngày xuân còn dài. Việc đó để đó. Xin hỏi một câu nữa: Những áng văn chương lão vườn đã thuộc đó có ảnh hưởng chi đến sự nghiệp tinh thần của lão chăng?
-  Bọc hoa lan hoa huệ trong túi thì làm sao không thấm ít nhiều hương. Chính nhờ thơ Phạm Thái, Ôn Như Hầu, bà huyện Thanh Quan, Tương An Quận Vương… mà lão rút ra được nhiều phép tắc để áp dụng cho thơ mình. Về kỷ luật làm thơ, ông cha chúng ta học theo Trung Hoa mà có lắm điểm không khác các nhà thơ tượng trưng Pháp… Cho nên những nhà thơ Mới thạo thi pháp của phái Thơ Cũ, như Chế Lan Viên là một, không bao giờ khinh khi di sản tinh thần của tiên nhân để lại.
Bóng cây mận đã tròn, đường về đã rộn bước chân và tiếng xe của các công chức tư chức tan sở. Vân Đình cùng ông bạn thanh niên đứng lên:
Ta về ta ngắm hoa ta
Trải bao mưa nắng hoa nhà vẫn tươi.
_______________________________________________
(1) Trong các sách thường chép:
Đòn cân tạo hoá rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn xếp lại rồi.
(2) Xem bài nói về Thơ Lục Ngôn ở tập sau.
(3) (4)  Xem tập GIỌNG HÀN THUYÊN nói kỹ về thơ Hàn Luật ở đây chỉ nói đại lược.