THƠ VƯỜN VŨ HÂN
Thân dù bệnh
hoạn, Vũ Hân vẫn băng ngàn tìm đến thăm lão và tặng Vườn Hoa Thơ ba tác phẩm:
-
Diễm Trang (Thơ)
-
Để xây dựng kịch
(Lý thuyết văn nghệ)
-
Giảng sách dưới
Trăng (Kịch dã sử).
Những văn thơ trong ba tập, lão đã được xem từ khi còn
là bản thảo.
Thơ trong Diễm Trang phần nhiều làm tại Liên Khu V thời
Kháng Chiến chống Pháp (1945-1954). Thời bấy giờ hầu hết các văn nghệ sỹ đều
chạy theo hoặc bị lôi cuốn theo tân trào. Vũ Hân và lão đứng yên một chỗ, cam
chịu tiếng lạc hậu và lời đả kích của cán bộ văn nghệ địa phương.
Lão ở Bình Khê xa cơ quan đầu não, ít khi gặp gỡ các
vị lãnh đạo văn hoá. Vũ Hân ở Hoài Nhơn là nơi tập trung hầu hết các nhân vật
cao cấp Liên Khu V, nên thường bị tay chân các vị nầy làm khổ.
Một hôm lão ra Hoài Nhơn có việc. Vũ Hân đọc cho nghe
bài thơ mới sáng tác:
NGHẸN BƯỚC
Nắng rụng gầy
sương đường lỡ thì
Thương người
khăn gói nghẹn chân đi
Quán nghiêng
nửa mái chờ giông tố
Cữa hẹp mây
đùn sập nét mi
Qủi dựng đằng
sau muôn lớp ải
Lòng nghe nai
gặm cỏ biên thuỳ
Xoa tay nhớ
lại mùa xuân trước
Phấn bướm còn
vương nhịp trúc ti.
Lão tán thưởng:
-
Bỏ luật mà âm
tiết vẫn điều hoà. Cặp kết tuyệt diệu! Đã mấy năm trời rồi mới gặp được một bài
thơ hay!
Vũ Hân sung sướng:
-
Nghe anh khen,
tôi mừng. Vừa rồi cán bộ văn hoá Miền Nam đem mổ xẻ. Họ bảo rằng tôi có tư
tưởng phản động nên đả kích tơi bời.
-
Chỉ đả kích chớ
không đề nghị đưa đi an trí, kể cũng đã khoan hồng lắm rồi, còn than gì nữa. Từ
nay có cao hứng sáng tác thêm được bài nào thì phải dấu kỹ, và phải luôn luôn
nhớ lời mụ quản gia của Hoạn Thư dặn Thuý Kiều:
Ở đây tai vách mạch rừng
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
Vũ Hân nghe lời và từ ấy thơ làm ra chỉ dành riêng cho
lão đọc. Đọc thầm dưới bóng dừa, dưới bóng giây tiêu, trong miếu hoang, trên
bãi vắng.. Đọc với nhau, chê khen với nhau, hễ thoáng thấy bóng người liền nít
bặt. Lão nói bỡn cùng Vũ Hân:
-
Trên đời ăn và
ngủ là hai cái thú. Nhưng cổ nhân dạy rằng chưa thú bằng ăn vụng và ngủ gật. Từ
bé chí lớn chưa từng ăn vụng và ngủ gật, nên tôi chưa biết thú đến mức nào. Nay
tôi khám phá được một cái thú mới: Đọc thơ bình thơ là một cái thú, song chưa
thú bằng đọc trộm bình thơ lén như hai đứa mình.
Vũ Hân vỗ đùi cái đét, ngửa mặt lên cười:
-
Hay!
Một hôm gặp Vũ Hân ở Phù Cát, Vũ mừng rỡ mời lão:
-
Vào quán, tôi đãi
anh.
- Tiền đâu mà
phung phí thế? Bán được thơ cho cơ quan Văn Hoá à?
-
Bán tập thơ Hàn
Mặc Tử cho một thằng bạn yêu sách cũ. Nó theo năn nỉ hoài. Nhân lúc túng tôi
đành bán cho nó và tự an ủi rằng “nó giữ cũng như mình giữ”.
Đoạn đọc cho nghe bài thơ cảm tác:
XUÂN TÚNG BÁN THƠ HÀN MẶC TỬ
Ta bán tình
ai dưới nắng đào
Tình ơi! đừng
khóc chuyện xưa sau
Đổi thương
nghĩ cũng tình đen bạc,
Nuốt lệ mà
mua chén ngọt ngào.
Thôi đuổi cô
sầu về dĩ vãng,
Đành cho độc
mộng lại chiêm bao.
Giật mình hoa
rụng xao lòng chén
Chẳng biết
hồn hương lạc hướng nào!
Lúc ấy nghe
đọc thơ đến câu:
Giật mình hoa
rụng xao lòng chén
Chẳng biết
hồn hương lạc hướng nào!
Lòng lão tự
nhiên cảm thấy bơ vơ lạnh lẽo. Rồi mỗi khi ngâm lại câu thơ, không cầm
được nỗi thương kẻ còn người khuất, vì kẻ còn cũng như người khuất “chẳng biết
hồn hương lạc hướng nào”!
VŨ HÂN là một nhà thơ thuộc lớp mới, nhưng ưa làm thơ
thất ngôn bát cú. Nhiều câu có cách điệu Đường Thi, như câu kết hai bài thượng
dẫn. Song thường thường Vũ Hân không thạo luật thi một cách chặt chẽ như phái
thơ Cũ. Có người tưởng rằng họ Vũ không rành thi pháp. Lão cải chính:
-
Không phải thế.
Chính Vũ Hân noi bước Vũ Hoàng chương tháo bỏ bớt những điều ràng buộc của
người xưa, nhất là về sự đối trượng.
Trong tập Mây của Vũ Hoàng Chương có bài:
NGHE HÁT
Phách ngọt
đàn say nêm khói êm
Tiếng ca buồn
nổi giữa chừng đêm
Canh khuya
đưa khách lời gieo ngọc
Mơ gái Tầm
Dương thoảng áo xiêm
Ai lạ nghìn
thu xa tám cõi
Sen vàng như
động phía châu liêm
Nao nao khói
biếc hài thương nữ
Trở gối hoa
lê rụng trắng thềm.
Thật ý vị!
Xem bài nầy và bài Nghẹn Bước của Vũ Hân thì thấy rõ
thơ thất ngôn bát cú hà tất phải có đối mới hay.
Cổ nhân bày ra phép tắc luật lệ là cốt để điều khiển
nguồn cảm hứng khỏi hỗn loạn vì quá tự do. Phải áp dụng một cách linh động.
Nhiều khi phải quá bỏ qui tắc để theo hứng. Không phải đợi phong trào Thơ Mới
nổi lên mới có người bỏ đối. Chính ở đời Đường là thời luật thơ phát xuất, thời
các thi gia đua nhau tu luật cho thêm chỉnh đốn, mà vẫn có người không theo luật,
có người nặng lời công kích. Thôi Hiệu làm bài Đăng Hoàng Hạc lâu, Lý Bạch làm
bài Đăng Phượng Hoàng đài.. đều không theo đúng qui tắc ổn định. Và Hàn Sơn mà
thơ nổi tiếng là cao nhã đã chê các thi nhân chú trọng niêm luật là bọn thong
manh:
Ngã tiếu nị tác thi
Như manh đồ
vịnh nhật
Nghĩa là:
Ta cười ngươi làm thơ
Như đui vịnh mặt trời
Qua đời Tống, các thi gia áp dụng thi luật lại càng
nghiêm nhặt hơn nữa. Do đó có ngừơi đã thốt câu “thi luật thương nghiêm tợ quả
ân” nghĩa là “luật thi vì quá nghiêm mà làm thương tổn tánh tình như người ít
hay thi ân đức”.
Giá trị của thơ vốn ở phong phú chớ không ở cách luật.
Mà phong phú do tánh linh mà ra. Cho nên người hiểu rõ đạo làm thơ thì lo uẫn
nhưỡng tâm tư, còn những kẻ tài kém mà hay khoe tài thì cứ lo thôi xao từ điệu.
Lúc ở Liên Khu
V, lão thường đem ý ấy mà bàn cùng Vũ Hân. Cho nên thơ luật của họ Vũ ít câu nệ
phép tắc, tình ý lui tới được thong dong. Lắm bài có biệt thú.
Thơ Lục bát của họ Vũ có phần lưu lợi hơn thơ luật.
Những câu như:
… Em đi bóng ngã lưng đồi
Ta nghe suốt hát bên trời xanh mơ
Thuyền ta ghé đổ ven bờ
Suối rung rinh nắng lững lờ
không gian…
(Áng tóc chiều)
... Có về đâu đất Liêu Dương
Mà sao mây trắng vấn vương
tình người?
Người đi nào, nệ trăng vơi
Đừơng sương trắng trẻo, ngày
trời vẫn thanh.
Dặm thu hoa cỏ hiền lành
Nhuốm màu du tử nửa xanh nửa
vàng…
(Đường
thu)
…Em tôi hồn mới dậy thì
Thơ tôi vừa mới chợp kỳ lên
phương
Chấp tay tôi khấn mười phương
Gửi dùm thương nhớ cho nường
phụ tôi.
(Nhớ).
Vân vân …
Đều là những vần
thanh lệ, hương vị không nồng nàn nhưng đượm đà, như mùi hoa ngọc anh.
“Áng tóc Chiều”
có nhiều hình ảnh đẹp.
Trong “Đường Thu”
có những chữ Liêu Dương, Du tử rất cổ. Song khéo sử dụng làm cho câu thơ trở
nên mới mẻ cả ý lẫn lời. Đó là phiên trần xuất tân. (Lật lớp bụi cũ lên để bày
cái mới ra)
Bài “Nhớ” câu
cuối trước kia lão nghe đọc như trên. Nhưng trong Diễm Trang lại chép là “Gửi dùm thương nhớ cho nàng THƠ tôi”
Câu cũ hay hơn.
Câu “Cho nàng thơ
tôi” là trực tức ngay thẳng.
Câu “Cho nường
phụ tôi” là khúc tức quanh co.
Cổ nhân dạy: “Làm
người quí trực, làm văn làm thơ quí khúc”. Vì sao vậy? Vì ở đời khúc thì ra giả
dối, còn văn thơ trực thì chẳng khác một dòng nước chảy thẳng băng xuống biển,
trông không mấy đẹp mắt khoái lòng. Chớ nhìn một dòng nước chảy quanh co, thì
thấy nhiều cảnh chồng lên nhau chỗ ẩn chỗ hiện, nhìn hoài thấy mới hoài, nhìn
mãi không chán.
Nghe đọc “Gửi dùm
thương nhớ cho nàng thơ tôi” thì không có gì phải thắc mắc phải suy nghĩ. Chớ
“…cho nường phụ tôi” thì làm gì cũng khiến người đọc người nghe phải đặt ra
nhiều câu hỏi:
-
Nường đã phụ mình sao mình còn thương nhớ?
-
Mà thương nhớ thì thương nhơ chớ gửi lòng mình đến mà
làm chi vì đã phụ rồi thì cần chi đến lòng người bị phụ?
Vân vân…
Bao nhiêu câu hỏi
ấy bấy nhiêu câu trả lời. Đúng ý tác giả càng hay, không đúng ý tác giả vẫn có
lý thú.
Cho nên “Nường
phụ tôi” quí giá hơn “ nàng Thơ tôi” là vậy đó.
Thưởng thêm một
bài nữa:
TẠ TỪ
Gặp nhau đang độ mưa trưa
Lòng không ấm lắm, tình chưa lệ kiều.
Tạnh mưa trời bỗng đìu hiu
Gió đưa khăn gói sợ nhiều nhớ thương.
Nhớ nhau tuy chẳng đoạn trường
E chiều vàng võ bên đường liễu xanh
Thương nhau dệt mộng chưa thành
Thà hoen tay áo nghiêng mình tạ nhau
Thật dễ thương!
Thơ lục bát của
Vũ Hân phần nhiều đều như thế cả.
Còn các thể khác
không làm cho lão “phải lòng”.
Trong tập kịch
GIẢNG SÁCH DƯỚI TRĂNG có hai bài thơ, một theo thể song thất lục bát, một theo
thể cổ phong. Bài cổ phong có cốt cách một cây lão mai bên bờ suối, cành khẳng
khiu rẵn rụi, trỗ lác đác vài đóa hoa tươi:
CUỒNG CA
Cõi trần điên! Vua Tần điên!
Oán cừu ngập cả núi sông Yên
Bốn trăm sáu chục hồn nho sỹ
Cuồng hận cười rung sóng cửa
tuyền
Khói huyền!
Ngọn khói huyền!
Sự nghiệp thôi rồi! Bụi bút
nghiên!
Một thuở thư sinh tàn mộng
lớn,
Muôn đời Tần chủ nặng oan
khiên
Đốt nữa lên! Đốt nữa lên!
Đây trang thảm sử chép lưu
truyền..
A phòng khoá kín nghe chăng
nhĩ?
Lửa múa, ta cười,
Nguyệt mãn thiên.
Nguyệt mãn thiên! Khói mãn
thiên!
Hàm Dương sừng sững mộ ngang
hiên!
Đêm nay có kẻ nhìn pho sách
Nhớ buổi sơ khai, rợ khắp
miền!
Thơ Vũ Hân còn
nhiều bài chưa xuất bản, và thơ đã xuất bản rồi không được sức ủng hộ của các
cơ quan ngôn luận, không được sự chiếu cố các nhà phê bình nên không được phổ
biến sâu rộng.
Cầm mấy tác phẩm
trên tay, nhìn người bạn “viễn phương lai” lòng tự nhiên sanh cảm khái, lão
buột miệng ngâm bài ngũ tuyệt lão đã tặng biệt bạn về Hội An chữa bệnh, lúc còn
ở Liên Khu V:
Mẹ già canh lửa đóm
Thân bệnh nẻo mưa thu
Muốn khóc không còn lệ
Lai giang lạnh khói mù