THƠ VƯỜN XUÂN XA
VÀ HOA NẮNG
VƯỜN HOA THƠ mở
ra để đón tất cả hương sắc bốn phương đưa đến, không phân mới cũ. Nhưng lâu nay
chưng bày trên vườn phần nhiều là những thứ hoa nở trong địa hạt thơ Đường
luật. Cho nên lắm bạn ngờ rằng lão giữ vườn nầy chủ trương phục cổ.
Những lời phân
trần… không đủ làm cho các bạn ấy tin rằng trong lòng lão không có những con
đê ngăn cách những giòng Thơ. Lão muốn mổ bụng ra cho các bạn xem, song tánh
lão ưa hoà bình, không thích thấy đổ máu, lại sợ đau, nên đành phải tìm cách
khác để chứng minh lòng không thiên vị: Giới thiệu cho nhiều thơ lối mới.
Cách nầy thật là
giản tiện, song thật là khó khăn! Bởi vì trong bao nhiêu bó hoa thơ các bạn
thân yêu gởi đến, phần nhiều chưa đúng kỳ hái mà đã vội hái, năm ba đoá màu sắc
dễ coi song lại thiếu hương vị, một vài đóa có nhiều ít hương vị lại màu sắc
không được xinh tươi…
Đương cơn lúng
túng thì lão tiếp đặng mấy bó hoa của một ông bạn thơ trẻ tuổi, từ Ba Lê gởi
về: Thơ của THI VŨ. Lão xem qua một lượt…, rồi thì một tiếng khoan khoái và vội
vàng giới thiệu cùng các bạn thân mến của Vườn Hoa Thơ.
Thi Vũ, hiện ở Pháp. Thân tuy ở tha phương
nhưng lòng vẫn luôn luôn hướng về Tổ Quốc: Ở nơi quê hương, một nơi phồn hoa đô
hội mà văn chương phơi bày nghìn sắc muôn hương, ông vẫn chăm rèn luyện quốc
âm, và thương gởi tác phẩm về đăng ở các báo chí, nhất là ở Liên Hoa nguyệt san
Huế. Ông đã hoàn thành được hai tập thơ Mùa Xuân Xa và Hoa Nắng.
Những hoa thơ ông
gởi về cho lão phần nhiều trích ở hai tập kia và một số mới sáng tác. Ông bảo:
Một vài cánh hoa
dại đơn sơ và bé nhỏ, hái trên những đường nắng xin đem tặng người mười phương…
Vườn mọi người đã
thơm lừng chục giống danh hoa, trăm màu nghìn vẻ.
Đem Hoa Nắng đến
phải chăng định tráo trở vàng, đồng? Quyết rằng không! Biết chăng sao bì kịp
với gót mây hương, với bao tà lụa sắc kia… chỉ vì thấy vườn hoa nào cũng trải
vàng thảm cỏ cho mát bước chân đi và phủ nền đất bụi.
Lòng bỗng thôi e
dè: biết đâu trong số người chơi hoa đông đảo kia lại chẳng có vài tâm hồn
thích đôi chồi Hoa Nắng dại để rải lên các đệm cỏ kia.
Tâm trí tạm yên để trình dâng chút sắc nõn hoa trời
(Lời thưa trước -
Hoa Nắng)
Ông lại bảo tác
phẩm của ông “như chiếc thuyền trôi trên sông, chở chút gió, chút nắng, chút
hơi mây, hương sông.., chở một mẩu không gian bé tí, hạn định của Đại Thể bao
la, không cùng, cứ thế trôi đi, bình lặng trước mọi ồn ào của biến chuyển bởi
như đã biết rồi, sẽ đến ngày về biển sáng đầu vòm trời” (Mùa Xuân Xa).
Đó là những lời
tâm sự ngỏ cùng những ai là tri âm.
Ai tri âm đó hãy
cùng lão vào vườn thơ để thưởng thức những đóa hoa lão đã lựa trong những bó mà
lão ưa thích nhất, đây:
ĐỘC MÃ
Trời
hương sực tỉnh sương thu rụng
Mai
mốt thôi còn ý lá rung…
Nhớ
đã se tim đường lữ thứ
Một
mình đem vó đọ mông lung!
(X/6I)
THƯƠNG HỜ
Mùa thu đổ hoàng hôn lên mái lá
Dấu chân hè mất dạng dưới sương sa
Buồn không biết cùng ai nói
Mắt lặng thương hờ đóm lửa xa.
(X/6I)
Bài Bát ngôn cũng
như bài Thất ngôn, âm tiết và khí vị phảng phất Đường Thi.
Bài HỒ ĐIỆP sau
đây:
Hồ điệp lượn đầy vòng quyến luyến
Rồi một đêm thôi quyến luyến ngọn đèn
Hạ mình trên mắt gỗ
Trông hoàng lạp múa men.
(Mùa xuân xa)
Cả lời lẫn ý đều
mới, đọc lên lão có cảm giác đọc một bài thơ Nhật Bản lối Tanka hay Haikai.
Những bài trên
đây đều có “tiếng đàn ở ngoài giây tơ”, đừng đọc trong nơi ồn ào, trong lúc
chộn rộn, thì mới hưởng trọn ý vị thanh tao.
THI VŨ thiên về
lối thơ không vần. Những bài có vần chỉ rải rác trong số thơ lão nhận được.
Lắm người không
chấp nhận lối thơ không vần. Họ bảo “Thơ khác văn ở vần, mà không vần không thể
gọi là thơ”. Nói thế là lầm to: Vận văn mới khác tản văn ở vần, chớ Thơ khác
văn ở chỗ “trong Thơ có thơ, trong văn không có thơ”. Vần chỉ giúp cho người
làm thơ dễ tạo âm nhạc mà thôi. Nếu bỏ vần đi mà âm nhạc câu thơ vẫn dồi dào
thì mới thật là xuất chúng. Kìa như Kinh Phật, các bạn ai chưa đọc thử đọc xem,
có cần chi vần mà thật đầy thơ đầy nhạc.
THI VŨ vốn là một
Phật tử, có lẽ ông đã nhận thấy chỗ kỳ diệu của văn chương trong Kinh và muốn
nương theo bút pháp của hai ngài TRẦN HUYỀN TRANG và CƯU MA LA THẬP? Có lẽ đúng
hơn là ông đã chịu ảnh hưởng phong trào văn học hiện đại của nước Pháp như một
số thi nhân bên Việt Nam, các nhà thơ Tự Do.
Theo qui luật của
người xưa đặt ra, học lấy bút pháp của những tay cự phách đương thời, hoặc tự
tạo ra những nguyên tác để theo, điều đó không quan trọng. Điều tối quan trọng
đối với kẻ làm thơ là làm thế nào cho thơ mình nhập diệu.
Vậy chúng ta thử
xem thơ không vần của ông THI VŨ còn ở xa hay đã đến gần diệu xứ? Lão xin đưa
ra đây một ít bài trong những bài lão đã đọc kỹ:
ĐỢI
Lá
úa trở về như đàn bướm
Cuối
mùa xuân lảo đảo bay tìm
Ngày
đâu hoa phong nhuỵ bừng tươi
Cũng
như thu tâm hồn tôi đến tuổi
Màu
xanh rụng để cành trơ chịu đựng
Trái
chưa mùi nắng hạ đã đi xa
Dáng
hanh thu không ráo đủ sương tà
Cũng
như lá tâm hồn tôi lưu lạc
Nát
trong bùn cầu gặp ít mầm xanh
Như
muôn cây đương vươn thẳng ngọn cành
Tôi
đứng đợi mặt trời lên chân biển
Để
lòng quên đôi cảm giác cô đơn
Bài nầy từ điệu
còn theo lối bát ngôn thời Tiền Chiến, và còn chen một ít câu có vần với nhau.
Thi Vũ có nhiều bài hoàn toàn không vần và thể cách có phần mới mẻ. Như:
NHƯ Ý
Những chùm nắng
Lìa xa bến trăng
Chở vào không
gian thành nho tươi óng
Sáng tằm tơ vàng
rực ướp hương lòng
Nỗi buồn đời
Đã có hơi tăm
Giọng cười ngọt
ngào xôn xao trao ướm
Tâm hồn đầy vạn
dáng mắt tơ ươm
Đường tinh tú
Cửa mây thu
Gót hài cài sao
băng từng vĩnh viễn
Chiều triền miên
cuối chầu triều thiên
Ta trả ta về ngọn
sóng xuân xa
Trong một bức thư
gởi cho lão, tác giả cho biết rằng thể thơ này là thể thơ mà tác giả “nhận thấy
rất thoải mái để ghi đúng tâm tư cùng ý tứ của mình”
Các bạn thấy hai
bài ấy như sao?
Theo lão thì cả
hai, tứ mới, có nhiều câu hay. Song đọc nghe chưa thật khoái tâm khoái khẩu.
-
Vì sao vậy?
-
Trong nghệ thuật
làm thơ, kỹ thuật hoà hài quan trọng thứ nhất. Âm hưởng phải quán thông, phải
du trường, tiết tấu phải luôn biến đổi, nhưng trên dưới phải hoà hợp, trước sau
phải liên tục, thì lời thơ mới đạt cảm và truyền cảm sâu xa.
Hai bài thơ trên, lão nhận thấy nhạc thơ điều hoà chưa
được khéo. Đọc từng câu từng đoạn thì êm ái nhịp nhàng. Song đọc toàn bài, nhất
là đọc một hơi, còn gặp nhiều cho gập ghềnh ngượng ngập, không nhất khí quán
hạ, nên không đủ sức lôi cuốn lòng người đọc và gây nhiều hứng thú cho người
nghe, nhất là những người cũ kỹ như lão.
Lối thơ không vần, thơ Tự Do, hiện đương ở trong thời
kỳ xây dựng. Phải đợi một thời gian kinh nghiệm để rút những ưu khuyết điểm,
đặt thành nguyên tắc chung, thì người làm thơ mới thấy rõ con đường đi đến chỗ
tuyệt đỉnh, và người phê bình mới có chỗ đứng vững chân.
Nhưng đối với THI VŨ, một nhà thơ trẻ tuổi “luôn luôn
tìm tòi một thể thức diễn đạt mới mẻ để làm giàu cho văn học...”, một nhà thơ
biết tự trọng nhưng không tự ái, luôn luôn vui vẻ đón tiếp những lời khen chê
vì, như ông đã nói “Quả nào muốn trở chín lại không qua mùa xanh? Lại không cần
bàn tay của thiên nhiên hay người làm vườn vun vén”, lão không ngần ngại phát
biểu ý kiến, mặc dù lão chưa nghiên cứu kỹ về lối Thơ không vần. Huống nữa phát
biểu ý kiến như thế may ra có đúng thì sẽ giúp ích cho ông bạn vong niên THI VŨ
phần nào, bằng rủi mà sai thì sẽ được các bậc cao minh chỉ giáo. Nói đúng thì
có lợi cho người, nói sai thì có lợi cho mình. Như thế lão sợ gì mà không nói
chứ.
Thơ Thi Vũ gởi cho lão khá nhiều. Những bài lão đã
trình bày đó là những bài lão thích, và lão còn thích nhiều bài khác, nhưng
không tiện trình bày hết ra đây, vì còn để thì giờ giới thiệu cùng quí bạn, một
loại thơ khác của Thi Vũ: Loại Thơ Tản Văn.
Về loại nầy, có thể mạnh dạng nói rằng tác giả đã
thành công trong nhiều bài. Ví dụ:
LÒNG THẲM GIẾNG
“Giếng ngọt ,
tình thơm… Ngại chi mưa chiều nước lũ! Mắt chúng ta là những vì sao sáng thắp bởi
ngọn đèn hồn. Những vì sao của những vì sao trên trời, của trời sao đêm găm đầy
mái tóc giếng.
Nghiêng mình
em nhìn xem lòng thẳm giếng, em sẽ thấy cõi vô cùng bàng bạc ở thẳm sâu.
Hoa rụng tròn
dư ba. Mặt nước gương sẽ lại vẹn toàn phản chiếu.
Tội chi ủ dột
lòng nước sóng. Tiếng chân đêm gánh sao về lóng lánh. Giọng hồ ngày rực rỡ mở
đời ra. Một vài thoáng heo may làm sao giá buốt được cõi đời?
Nghiêng mình
em nhìn xem lòng thẳm giếng!
Đó là cái
nhìn tận trong thăm thẳm của tâm tư. Cái nhìn của con người có đời sống bên
trong dồi dào và sâu sắc, đã nhận thức được cái Đẹp vô biên và bất biến của
Chơn Tâm”.
Lời dịu, ý thâm, vị thơ thanh đạm nhưng thấm thía.
Tập HOA NẮNG của THI VŨ gồm hầu hết thơ Tản Văn, và
thơ Tản Văn trong Hoa Nắng phần nhiều đều đáng yêu và dễ yêu như Lòng Thẳm
Giếng.
Để quí bạn thưởng thức thêm thi tài của tác giả Hoa Nắng
lão xin đưa ra một bài nữa:
TRĂNG
“Trăng đêm nay
sáng, nền trời thẩm đen xanh ánh ngọc thạch.
Chỉ một tí
chút vòng cung, song án ngự tất cả vòm cao. Vẻ sáng không chói loá mà trong
vắt, mát dịu và hiền.
Trăng không
cần lớn như vòm trời
Trăng không
thích bé như những vì sao.
Trăng vừa vặn
trong toàn vẹn hồn nhiên thanh thoát.
Chốc chốc
thoáng qua chút mây che, nhưng rồi mây tan biến như hơi nước, để ta thấy rõ hơn
màu ngọc trai ánh nước, điềm đạm hiện giữa vòm cao.
Những vì sao
quần tụ và tản mát nói lao xao cho nhau nghe về người chị yêu dấu đang vỗ về
bóng tối…”
Trăng - trăng vừa vặn trong toàn vẹn và hồn nhiên
thánh thoát kia có phải bóng dáng của Bản Thể thanh tịnh và nhiệm mầu?
Thật là đẹp và nên thơ!
Nếu Hàn Mặc Tử còn sống, sẽ tìm đến vỗ vào đùi lão mà
bảo:
-
Uống vào thật
ngọt lịm cả hàm răng!
Thơ Tản Văn không phải mới. Trước Thi Vũ đã có Xuân
Diệu và Chế Lan Viên. Hai tập Phấn Thông Vàng và Vàng Sao cùng Cai Lửa là những
tập Thơ Tản văn rất có giá trị. Nhưng ngót vào mươi năm nay chưa có tập nào kế
túc. Tập Hoa Nắng của Thi Vũ ra đời chẳng những bổ túc cho chỗ khuyết kia, mà
còn đưa vào làng Thơ một khí vị thanh thoát và mới mẻ.
Thi Vũ còn đợi gì mà không cho Hoa Nắng ra mắt bạn
mười phương? (1)
Lão chưa được gặp Thi Vũ. Song qua những bức thư và
những thi phẩm gởi cho lão, lão nhận thấy bạn là một nhà thơ có tâm hồn phong
phú, có văn thái phong lưu, và rất dày công học hỏi tu luyện. Những tác phẩm đã
hoàn thành kia mới là bước đầu trên đường văn nghệ. Thế mà đã có nhiều đặc điểm
như thế, thì với tuổi trẻ, với tài năng, với công phu học tập, Thi Vũ sẽ xây
dựng nên một sự nghiệp văn chương cao lớn và vững vàng (2)
Giới thiệu THI VŨ, lão có hai điều vui sướng:
-
Được đưa ra vườn
thơ yêu quí của chúng ta, một khóm hoa lạ mới trổ hương và đầy nhựa sống, chưa
từng lọt vào mắt của những khách tìm hoa.
-
Được quí bạn thân
yêu tin rằng lão tuy lù khù lọm khọm, nhưng bụng dạ không đến nỗi chỉ chứa toàn
những gạch bể đá nát của nghìn xưa, như lòng các ngọn tháp Chàm rêu đóng.
Nghĩ vậy, lão đắc ý vuốt râu ngâm to rằng:
Mạc hiềm lão
phố thu dung đạm
Do hưu hoàng
hoa vãn tiết hương.
_____________________________________________________________________
(1) Lúc viết bài này (1960) Hoa Nắng chưa
xuất bản. Hoa Nắng vừa xuất bản đầu năm 1970.
(2) Bài này viết năm 1960. Trong mấy năm nay
thi đàn của THI VŨ lên cao và thơ Thi Vũ sáng tác được nhiều tác phẩm giá trị.
Có dịp sẽ nói cặn kẽ. Bài này trước viết sao nay giữ y vậy để làm kỷ niệm.