TIẾP KHÁCH
HOA THƠ [4]
10.
Hai ông bạn già VÂN SƠN và ĐỨC HUY đến vườn tìm mấy
bận đều thấy cửa đóng, bèn thẳng đến thảo lư của lão.
-
Bớ Lão Vườn, lâu
nay làm gì mà vắng tăm vắng dạng như thế?
Lão đương lom khom rảy nước cho mấy giỏ hoa vừa nhận
được, nghe tiếng người quen liền bước ra đón:
-
Chà! Đến cả cặp.
Thú quá!
-
Háo khách như thế
mà sao lại đóng cửa vườn?
-
Vì mưa gió…
Bác VÂN SƠN thong thả đọc:
Chẳng tạnh
cho mình ngó chút chơi
Gió mưa sao
cứ gió mưa hoài !
Hai hàng luỵ
ngọc tuôn vì nước,
Một tấm lòng
son ngó với trời
Trước mắt
thấy mây giăng lớp lớp.
Bên tai nghe
sét đánh nơi nơi,
Gió mưa chẳng
tiện bề lui tới,
Kẻ ở trong
trông kẻ ở ngoài.
Bác ĐỨC HUY vuốt râu cười:
-
Hay thì hay thật,
song không hợp cảnh hợp thời!
Bác VÂN SƠN đáp: - Hợp thế nào được, vì thơ làm đã
trên năm mươi năm nay, lúc Phan Sào Nam tiên sinh còn ở hải ngoại. Đó là tấc
lòng của một nhà ái quốc nóng chờ tin tức của các đồng chí xuất dương. Nay nghe
Lão Vườn thốt hai chữ “Gió mưa” chợt nhớ đến ngâm cho vui vậy thôi.
-
Tác giả là ai?
-
Không được rõ.
Lão chen vào:
- Thơ của các nhà
ái quốc tiền bối có nhiều bài rất hay, ngọc lấp hương tan, nhưng vì không có
người sưu tập nên bị mai một gần hết. Thật là uổng!
Bác VÂN SƠN liền ngâm:
Vì lòng
thương ngọc tiếc hương,
Nhặt hoa đem
trải lên vườn hoa thơ…
Phụ phàng dù
gió dù mưa,
Nghìn sau
thơm thắm vẫn lưa ít nhiều.
Đoạn nói:
-
Xin tặng lão vườn
mấy câu lạo thảo. Và Lão Vườn lâu nay chắc thâm lượm được nhiều hoa thơ, hãy đem
ra cho nhau thưởng thức với.
Lão trải chiếu nơi hiên mận rồi vào lấy hoa đem ra:
-
Đây “Những cành
nhớ nhung” của các thi hữu đất Bình Khê vừa gởi đến. Nhờ hai bác lựa dùm những
đoá thơm tươi.
Hai ông bạn trịnh trọng đón hoa… Hồi lâu đưa ra một
cành:
Bấy chầy lão
phố lánh nơi đâu
Mà để vườn thơ
vắng trước sau?!
Hường huệ
ngổn ngang sầu cỏ rối;
Liễu dương
sùi sụt lệ mưa ngâu..
Chờ mong tin
gió đưa chim thước,
Thương nhớ
hoa xuân trỗ mái đầu.
Đường trạm
biết vui về lũng thủ
Giang Nam
cành mộng gởi trao nhau.
Bác Đức Huy cười:
- Người tặng hoa không
để tên, nhưng nghe hơi hám cũng có thể đoán biết là giai nhân.
Bác Vân Sơn tiếp: - Nếu giai nhân thì càng tốt bằng
không phải giai nhân cũng không sao. Điều cốt yếu là thử xem có chi xuất sắc
chăng vậy.
Lão đáp:
- Cặp trạng từ điệu
đáng yêu. Người làm thơ thường thường ngắt hơi ở chữ thứ tư, chữ thứ ba, chớ ít
khi nghỉ ở chữ thứ 5 hay chữ thứ nhất.
Vân Sơn: - Tôi muốn bỏ phức dấu hai chấm, để ai muốn
đọc sao thì đọc hiểu sao thì hiểu. Cành hoa nửa ẩn nửa hiện trông mới thật là
đẹp, ngắm mới thật là thú. Các bác nghĩ sao?
-
Đồng ý.
Bác ĐỨC HUY phê tiếp: - Cặp lụân, vế dưới hay, vế trên
hơi kém.
Bác VÂN SƠN cãi: - Không kém. Hai vế đối nhau đã cân
mà ý tứ lại rất liền lạc. Đọc hai câu này tôi liên tưởng đến câu:
Hỏi thăm tin
tức bao giờ lại,
Con thước qua
song lại ỡm ờ!
Trong Mùa Cổ Điển, câu:
Tương tư nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
Trong
Đoạn Trường Tân Thanh, và câu Đường thi:
Cổ Viên thơ
động kinh niên tuyệt,
Ba phát xuân thôi mãn kính sanh.
Mà
Trường Xuyên đã dịch là:
Năm mòn mỏi
mắt tin nhà vắng,
Hoa trập
trùng gương mái tóc sanh.
Khi làm hai câu:
Chờ mong tin
gió đưa chim thước,
Thương nhớ
hoa xuân trổ mái đầu.
Không biết tác giả có nghĩ đến mấy câu kia chăng?
ĐỨC HUY: - Chưa chắc. Có nhiều khi tình cờ ý người nầy
trùng ý người nọ. Cho nên Tây triết có câu: “Những kẻ đại tài thường gặp ý
nhau" (Les grands esprits se
rencontrent).
Lão bồi thêm:
-
Chính thế. Vô tâm
mà giống nhau là chuyện thường trong làng văn thơ. Tuỳ Viên có trích dẫn hai
câu thơ của hai thi nhân ở cách xa hàng vạn dặm và chưa hề quen biết nhau, mà
tình ý giống nhau như hai anh em ruột. Một câu trong bài “Ngẫu thành” của Đào
Hoàng Thôn rằng:
Đa tình chỉ
hữu tiêu tiêu trúc,
Thời đới tà
dương lục đáo song.
Nghĩa là:
Đa tình riêng
khóm trúc hoa,
Ngày ngày đeo
ánh dương tà vào song.
Và một câu trong bài “ Lương giai” của Diêu Cơ Truyền rằng:
Nhân tích bất như tu trúc ảnh,
Mỗi
tuỳ minh nguyệt đáo trung đình.
Nghĩa là:
Dấu người
thua bóng trúc xanh
Đêm đêm theo
ánh trăng thanh vào thềm.
VÂN SƠN: - Hay quá!
ĐỨC HUY: - Mà dù có mượn ý của nhau cũng không sao,
miễn lời văn đừng giống nhau là được. Các nhà văn nhà thơ khác nhau ở cách diễn
tả, mà hơn nhau cũng ở cách diễn tả. Còn ý thì ai cũng thể có những ý hay.
Lão biểu đồng: - Huống nữa, mượn ý nhau, người xưa
cũng thường có. Như Lý Thái Bạch mượn thơ Tạ Khương Nhạc, Đỗ Phủ tập thơ Dũ Tử
Sơn, Âu Dương Tu phỏng thơ họ Hàn… Có người cho là “du dạo”, Lưu Cống Phủ cười
đáp: “Nhưng không thiệt hại đến sự chủ”.
VÂN SƠN: - Nhiều khi những gì mình thâu thập được
trong sách vở ăn sâu vào đáy lòng, rồi lúc cao hứng, vụt tuôn ra một cách bất
ngờ khiến mình ngỡ rằng chính mình đã nghĩ được.
Lão đáp: - Quả có thế. Và đó là “ tiêu hoá”: Đồ ăn ăn
vào đã biến thành khí huyết. Những “ gì ấy” trước kia là của sách vở, mà một
khi đã thấm vào lòng rồi tuôn ra bút như thế, thì trở thành của mình chớ không
còn là của sách vở nữa. Ví dụ bọn già mình đây dùng cho thật nhiều nhung nhiều
lộc giác giao vào rồi sanh thêm út một út hai nữa, thì những út đó là con cái
nhà mình, chớ nào phải con hươu con nai.
Bác VÂN SƠN vỗ vế cười ngất: - Lão Vườn ví dụ thú vị
quá!
Bác Đức Huy, tai thì để nơi câu chuyện, còn mắt thì để
vào giỏ hoa, và tay luôn luôn tỉa lựa. Nghe Lão nói, liền giơ cao một nhánh hoa
thơ, cười hả hả: - Lão già phong tình! Hèn chi TIÊU LIÊU TẨU gởi nhắn rằng:
Ông bảo rằng
ông tuổi tác già…
Ông già ông
vẫn khác người ta:
Nguyệt lồng
gối mộng say sưa nguyệt,
Hoa bén vườn
thơ ấp ủ hoa.
Đầy vạt thanh
sam hương phấn điểm,
Quên đài minh
cảnh tuyết sương pha.
Đường đời còn
lắm duyên tri ngộ,
Gậy chạm đầu
cưu hãy chống ra. (1)
Bác VÂN SƠN khen:
-
Cha chả! Ông lão
nào đây mà văn chương tươi trẻ như thế?
Lão đáp: - Đó cũng là giống phong tình, già một lớp da
ba lớp mỡ đó.
Bác ĐỨC HUY khích: - Tiêu Liêu Tẩu khai chiến. Lão
Vườn định nghinh chiến hay qui hàng?
VÂN SƠN: - Qui hàng thế nào được. Chúng mình buộc lão
phải giao phong kẻo mất danh lão tướng.
Vốn không “tập vợt” đã lâu ngày, không còn đủ khí lực,
song bị thôi thúc, lão phải cố gắng hươ tay:
Tôi đã già
rồi, bác cũng già,
Phong lưu còn
nặng nợ đôi ta.
Xùng xình với
nguyệt vì ưa nguyệt,
Ấp ủ dùm hoa
kẻo lạnh hoa.
Hương ngấm
lòng thơ riêng ấm áp,
Gương vờn mái
tuyết lắm phôi pha.
Vườn xưa tạm
đóng phòng mưa gió
Mừng đón
dương xuân hé mở ra…
Bác VÂN SƠN vuốt râu khen:
-
Giỏi! Giỏi lắm! Rõ là:
Ông già, già
tóc, già râu,
Những ngón tí
tửng ông đâu có già!
Bác ĐỨC HUY cao hứng hoạ ngay bài lão:
Tuổi tác tuy
già tâm chẳng già,
Trần gian lắm kẻ há riêng ta.
Đeo gương ngắm nguyệt say tình nguyệt,
Chống gậy tìm hoa bẻ nhuỵ hoa.
Hương sắc trăm năm cho thắm đượm,
Phong trần hai mái mặc phôi pha.
Phải như lão phố người tri kỷ
Thời cữa vườn thơ mở rộng ra.
Bác VÂN SƠN tán
thưởng: - Lanh lắm! Lanh lắm! Thật là:
Ông già ông khác người ta,
Cười hoa cợt nguyệt ông ma hơn người.
Bác Đức Huy nhìn
bác Vân Sơn:
- Tới phiên bác.
- Thôi, vừa rồi.
Huống nữa ai nấy đều hát thì còn ai cầm chầu.
-
Ừ, thì gióng chầu
lên.
- Nãy giờ đánh
trống thưởng đã nhiều rồi, bây giờ xin gõ tang chút chơi: Hai bài của Tiêu Liêu
Tẩu và của Lão Vườn không có gì đáng nọc. Có thể gọi là toàn bích. Riêng bài
của Đức Huy, ba chữ “ bẻ nhuỵ hoa” lời thanh nhưng ý không nhã. Đề nghị sửa
lại.
Lão đồng ý.
Đức Huy cười: - Thì tìm cho ba chữ khác.
Lão đáp: - Nên sửa là “ Đẹp ý hoa”.
Bác VÂN SƠN vỗ tay khen:
- Hay! Lời nhã, đối
chỉnh, ý kín, lại đổi hẳn khí thế câu thơ. Câu nguyên tác chỉ diễn tả hành vi
của người đeo gương chống gậy. Nguyệt và hoa bị thụ động, người ngoài không rõ
được phản ứng của chúng như sao. Còn trong câu:
Đeo gương
ngắm nguyệt say tình nguyệt,
Chống gậy tìm
hoa đẹp ý hoa.
Thì bên năng (người chống gậy đeo gương), bên sở (hoa
nguyệt) tương ứng, có vẻ ý hiệp tâm đầu. Trong nguyên tác vì 2 chữ “ bẻ nhuỵ”
rõ ràng là nói về người chống gậy, cho nên 2 chữ “say tình” ở trên nhất định
phải thuộc về người đeo gương. Trong câu phủ chính, chữ “đẹp” là của hoa, nên chữ
“say” trở thành của nguyệt. Trong câu nguyên tác, ý đi xuôi một chiều như dòng
nước xuống biển. Trong câu phủ chính có hô có ứng, như tiếng gọi buông ra tiếng
vang dội lại. Khí thế của hai câu khác nhau ở chỗ đó.
Bác ĐỨC HUY gật đầu. Lão hỏi: - Trong giỏ hoa còn
nhành nào khả thủ chăng?
-
Muốn tìm một
nhánh danh hoa mà không thấy.
-
Diêu hoàng Nguỵ
Tử làm gì có được nhiều. Trong cơn mưa nắng thất thường mà tìm thấy được một
nạm hoa ngâu, một búng hoa lài cũng đã đáng quí rồi vậy.
-
Thì đây, nhánh
hoa lài của Vương Kính Sơn:
Vườn thơ vắng
lão nhặt hoa thơ,
Con én rường
cao đứng thẫn thờ!
Lạnh lẽo thềm
mai hương gởi gió,
Bơ phờ mái
liễu nhện buông tơ..
Ba xuân du tử
buồn qua lại,
Bốn bể tri âm
luống đợi chờ.
Ngoài dặm
ráng mây tình có thắm,
Phấn hương
vườn cũ nỡ thờ ơ?!
Và đây khóm hoa ngâu của Trương Ỷ Hương:
Vườn thơ vắng
lão giữ vườn,
Để lan chờ
đợi để hường nhớ nhung !
Cầm trăng
liễu để tơ chùng,
Thềm mai để
mộng lạnh lùng hương khuya.
Gió xuân mấy
độ đi về,
Hoa không
người hứng quanh hè hoa rơi !
Ráng mây tầm
mát chơi vơi..
Ai tri âm đó?
Đây lời tri âm.
Bác VÂN SƠN ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
-
Giá không sánh
kịp hải đường tường vi, song cao hơn hoa lài hoa ngâu một bậc. Bài của Ỷ Hương
có thể sánh với hoa cẩm nhung. Còn bài của Kỉnh Sơn thì chưa tìm ra giống hoa
thích đáng..
Bác ĐỨC HUY ngắt lời: - Thì để đó đã. Bây giờ xin cho
biết Kính Sơn dùng chim én vào thơ có ý gì chăng?
Lão đáp: - Tác giả họ Vương nên mượn chim én để nói
mình, vì Đường Thi có câu:
Cựu thời
Vương Tạ đình tiền yến
Phi nhập tầm
thường bácb tánh gia.
Nghĩa là:
Én xưa đình
Tạ đình Vương
Lạc loài đến
chốn tầm thường nhân gia.
VÂN SƠN:
-
Con én trong vườn
hoa thơ lại không bay đi nơi khác, mà cứ đậu nơi rường cao mà chờ lão vườn. Có
tình thật !
ĐỨC HUY:
-
Hai bài nầy, bài
của Ỷ HƯƠNG trội hơn bài của KỈNH SƠN.
Bác Vân Sơn đồng ý. Lão tiếp:
-
Khi nãy bác ĐỨC
HUY có nói đến cách diễn tả. Chúng ta có thể mượn hai bài này để chứng minh lời
nói ấy. Trong hai bài này có nhiều ý giống nhau, và mối tình nhớ thương cũng
không lấy gì làm khác cho lắm. Riêng nói về câu 3 câu 4 của hai bài: Kính Sơn
và Ỷ Hương đều dùng liễu dùng mai để tả nổi lòng của mình. Nhưng đọc lên câu
của Ỷ Hương rung cảm chúng ta hơn câu của Kính Sơn. Vì sao vậy? Chẳng phải vì
câu của Ỷ Hương giàu hình ảnh và giàu âm nhạc hơn câu của Kính Sơn đó ư?
VÂN SƠN: - Nghĩa là kỹ thuật của Ỷ HƯƠNG tinh diệu hơn
Kính Sơn?
-
Chính thế. Các
nhà văn thơ khác nhau ở kỷ thuật và hơn kém nhau cũng do kỷ thuật. Lời của bác
Đức Huy quả thật đúng vậy.
ĐỨC HUY: - Nhưng có kỹ thuật mà không có tâm hồn thì
trở thành những anh thợ làm hoa giấy.
Lão tiếp: - Còn có tâm hồn mà không có kỹ thuật thì
chẳng khác có giống hoa quí trong tay mà không biết cách trồng trỉa.
VÂN SƠN: - Tức là nội dung và hình thức phải tương
xứng thì tác phẩm mới thành giai phẩm, bằng mích một bên thì là hạ phẩm. Hoa
dúi dẻ có hương, hoa bìm bìm có sắc, nhưng chỉ có các em bé là bạn tương tri.
Còn những nhánh hoa thơ chúng mình lựa nãy giờ, tuy không phải “quốc sắc thiên
hương” song sắc hương đều có đủ, thật đáng đem chưng nơi phòng khách, phòng
văn.
Lão toan vào lấy thêm một ít hoa nữa ra nhờ lựa dùm,
nhưng bác Đức Huy bác:
-
Để hôm khác. Hôm
nay chừng nớ tạm đủ dùng để tiếp khách yêu hoa.
Bác VÂN SƠN tiếp: - Bữa nay nhân trời tốt, lại lựa
được một ít hoa vừa ý, âu là chúng ta giúp lão vườn dọn dẹp để mở cửa vườn trở
lại.
Thế là dưới ánh nắng vàng dịu buổi mai cuối xuân, ba
mái tóc bạc bay phất phơ theo ngọn gió nồm, trong mảnh vườn nhỏ mà rêu đã phong
nửa đường lối đi. Chốc chốc vang lên tiếng cười tích tác và tiếng ngâm nga:
-
Ra công quến mận vun đào
Nghìn thu
hương phấn thấm vào văn chương.
-
Trải lòng dấp hạnh ủ hường,
Ngòi hoa chi
ngại gió sương phụ phàng.
-
Chút tình thương huệ tiếc lan.
Từng xâu ngọc
đúc từng hàng sao đông.
_____________________________________________________________________
(1) Chim cưu là giống chim ăn không nghẹn. Cây gậy ông
già chạm đầu chim, có ý như ăn uống ngon lành.