TIẾP KHÁCH
HOA THƠ [5]
11.
Bóng mặt trời vừa lên khỏi rặng núi phương đông. Gió
biển thổi dìu dịu. Một mình ngồi dưới gốc mận già, lão ung dung mở từng bó hoa
thơ của bạn phương xa gởi đến để so hương đọ phấn. Chợt ông bạn già LA DUNG và
cô bạn trẻ TUYẾT MAI đến kêu mở cửa vườn. Lão vội vàng ra đón khách với niềm
hân hoan của tuổi già nở hoa.
LA DUNG hỏi: - Lão Vườn đương làm gì đó?
-
Tuyển hoa khôi.
TUYẾT MAI mỉm cười: - Hẳn là “Nghìn thắm trăm thơm đấu
mỹ miều”?
Lão đáp:
Từng quen với
lửa cao vàng đá.
Trót gọi rằng
hoa tụ phấn hương.
LA DUNG tỏ vẻ nghi ngờ: - Như thế
thì tấc cả hoa thơ gởi đến lão vườn chắc đều được nâng niu tán thưởng?
Lão cười:
Hoa thơm ai
nỡ bỏ rơi,
Thơ hay chẳng
luận của người của ta.
Khách cả cười và mỗi người trao tặng lão một bó hoa
bọc kín. Lão toan mở giấy, LA DUNG ngăn lại: - Khoan. Hãy cho xem hoa trong
vườn lão trước đã.
Lão đưa khách đến bên giỏ hoa lão vừa soạn. LA DUNG
vói rút một nhánh thuận tay, xem qua rồi nói: - Đây là “Cành hoa anh thảo” của
VŨ HUYỀN DƯ ở Huế. Vũ quân gặp trên đường Van Thế cành hoa ấy, thấy có hương có
sắc bèn nhặt gởi tặng lão vườn. Cả nhánh trổi nhất là 2 đóa này:
Nhặt chiếc
hoa rơi xin kính lão
Hương lòng hoà nhịp sắc hương hoa.
TUYẾT MAI phê bình: - Kể cũng có tình, song ai lại
nhặt hoa rơi mà tặng? Nếu có thương hoa thì Vũ quân nên “Nhặt cánh hoa về ấp ủ
hương” Còn muốn gởi tặng lão vườn thì thiếu chi hoa tươi trên cành? Nhặt hoa
rơi dưới đất, dù là danh hoa đi nữa cũng là thất lễ, huống hồ anh thảo hoa.
Lão nói: - Đó chỉ do chỗ nghĩ không chín của Vũ Quân,
chớ xem tình ý trong thơ thì thấy Vũ Quân có lòng muốn “đắc thọ”.
LA DUNG: - Tình thì quá đáng mến, nhưng lý thì không
thể không trách. Khách phong tao cần phải thận trọng khi ngọn bút vào tay.
Lão tiếp: - VƯƠNG KINH CÔNG đời Tống nói rằng: “Chữ
THI một bên chữ NGÔN, một bên chữ Tự. Tự là nơi quan cửu khanh ở, lời nói phi
lễ phép không được vào”. (Thi giã TỰ NGÔN giã. Tự vị cữu khanh sở cư, phi lễ
phép chi ngôn bất nhập). Đó là sợ kẻ làm thi mang lỗi bất kính nên KINH CÔNG
mới nói ra lời ấy. Vì phần đông bạn thanh niên ít xem cổ văn nên không biết
vậy.
TUYẾT MAI đón cành hoa xem kỹ: - Vũ Quân sắp xếp những
cánh hoa đầu cành thành chữ LÀNH MẠNH, kể cũng đã công phu.
LA DUNG: - Đó là cách chơi chữ rất phổ thông trong
làng thi Đường luật, và là ngón sở trường của những bạn lấy thơ làm món tiêu
khiển như rượu cờ. Muốn trở nên một nhà thơ chân chính (un poète) thì những món
tiểu xảo như thế nên nhường lại cho các ông thợ làm thơ (les versificateurs).
Lão nói thêm: - Trong một bài thơ, cũng như trong một
khóm hoa, tình ý là gốc, từ cú là nhánh. Ca dao có câu:
Tiếc công vun
quến cây tùng.
Săm soi trên
ngọn dưới gốc sùng không hay.
Và cổ nhân dạy rằng: “Làm thơ trước hết phải lập ý. Ý
lập được rồi thì lời tự đạt, vận tự hiệp, bài dễ tự thành. Nếu chẳng lo lập ý
mà cứ lo trau dồi từng câu từng chữ, thì dù không rơi vào chỗ cắt xé, cũng rơi vào chỗ chắp vá”.
Việc chuốt chữ còn phải tránh huống hồ việc chơi chữ.
Phải tránh vì không khéo bị lâm vào cảnh “vun quến cây tùng”.
TUYẾT MAI: - Theo lời lão vườn vừa nói thì thơ hay ở
ý. Nhưng đã có lần lão bảo rằng “Thơ là giai nhân nên trước hết phải đẹp”. Hai
lời nói dường như mâu thuẫn nhau.
- Không có gì là
mâu thuẫn. Thơ là giai nhân, giai nhân là hoa. Cho nên Thơ cũng như giai nhân
trước hết phải đẹp. Đó là chân lý của muôn thuở. Nhưng giai nhân mà có là nhờ
thịt nhờ xương. Tình ý là xương của thơ, mà từ cứ là thịt. Và giai nhân đẹp là
nhờ thịt, nhưng nếu không có xương, hoặc xương bị gãy hay bị cong, thì liệu
thịt có thể tự chải chuốt cho giai nhân trở nên đẹp?
LA DUNG: - Người
năng thuyết phải tuỳ đối tượng mà thuyết, thì sở thuyết mới có hiệu quả đối với
người nghe. Lão Vườn đã theo phép ấy.
TUYẾT MAI gật đầu, rồi lựa chọn một nhành hoa vừa ý
đưa ra giới thiệu: - Đây nhánh “Sầu trăng” của CAO HOÀNG NHÂN, một nhánh hoa,
theo ý tôi, có thể gọi là hoàn hảo:
Rạo rực hồn
yêu là bóng trăng,
Mang mang
tình ái vướng gương Hằng.
Triều thơ
tửơng vọng chìm hương quế,
Sóng lệ hoài
mơ loáng gác Đằng.
Nửa mảnh trời
êm sầu vợi vợi..
Một màn sương
dịu nhớ giăng giăng.
Người ơi!
Hương lạnh trang tình sử,
Hư ảnh người
xây mộng kịp chăng?
LA DUNG khen “thanh tao”, rồi hỏi lão: - CAO HOÀNG
NHÂN là ai?
- Là một thanh niên
trước đây tòng học ban Trung Học đệ nhị cấp trường Võ Tánh Nha Trang, hiện làm
giáo sư một trường tư thục ở Phan Rang. CAO HOÀNG NHÂN có thi tài, nhưng thi
học chưa được sâu rộng, nên thi phẩm thường được hoa lệ mà thiếu phần hàm súc,
thâm thuý. Tuy vậy không có gì đáng ngại: Tuổi chàng đương trẻ, sức chàng đương
hăng, bước tiến của chàng trên đường văn nghệ sẽ đi xa chưa biết đến đâu là
cùng nếu chàng chịu khó nghiên cứu thêm văn chương Ầu, Á.
- Sách Á cũng như
sách Âu dạy phép làm văn làm thơ thật là sâu xa, rành mạch. Rất tiếc phần đông
thanh niên ta hiện giờ Hán văn đã kém mà Pháp văn cũng kém. Còn bên quốc văn
lại chỉ có lơ thơ đôi quyển thi pháp nhập môn quá ư sơ lược. Kẻ cầu tiến bộ
thật không biết đâu để đặt chân.
TUYẾT MAI: - Tôi thường nghe nói rằng: Thơ hay là do
thiên tài chớ không phải nhờ học vấn. Như Anh Thơ. NGUYỄN BÍNH,…thời tiền
chiến, học lực không quá mức tiểu học mà văn chương vẫn nổi tiếng một thời.
Lão đáp: - Không phải rằng đậu bằng nọ bằng kia mới
gọi là có học. Cũng không phải đọc được thiên kinh vạn quyển mới gọi rằng có
học. Học là thâu thập những tinh ba của người xưa người nay gởi trong sách vở,
rồi nhào trộn biến chế thành vật sở hữu riêng biệt của mình, như con ong hút
mật, con tằm ăn dâu…
TUYẾT MAI: - Nhưng có lắm người học vấn uyên thâm mà
suốt đời không thấy một thi phẩm truyền tụng. Như thế học vấn có lợi gì cho thơ?
Lão cười: - Dường như NGHIÊM VÕ ngày xưa biết trước
rằng TUYẾT MAI sẽ thắc mắc điểm ấy nên đã giải thích rành mạch.
- Giải thích thế
nào?
- Rằng: “Thi có
biệt tài chớ không quan hệ ở sách. Thi có biệt thú chớ không quan hệ ở lý.
Nhưng không đọc nhiều sách, không hiểu thấu lý, thì thi không đến chỗ cùng tột
được”. (Thi hữu biệt tài phi quan thơ
giã. Thi hữu biệt thú phi quan lý giã. Nhiên phi đa độc thơ đa cùng lý, tắc bất
năng cực kỳ chí giã). Lưu Tri Cơ: “Có tài không có học như người thợ mộc
khéo thiếu gỗ, không hay vận búa được. Có học không có tài như người đi buôn
ngốc cầm vàng, không hay chứa hàng được” (Hữu
tài vô học như xảo tượng vô mộc, bất năng vận cân. Hữu học vô tài như ngu cổ
thao kim, bất năng đồn hoá). Lão xin nói thêm cho “rậm đám”: Thiên tài là giống
tốt của trời gieo, học vấn là phân nước của người bón tưới. Giống dù tốt đến
đâu mà thiếu nước thiếu phân thì lộc có nảy chồi có sanh đi nữa cũng không được
thạnh mậu. Nếu NGUYỄN BÍNH, ANH THƠ.. chịu khó học hỏi thêm thì sự nghiệp văn
chương nhất định sẽ cao thêm năm mười bậc nữa.
Nhưng thôi, lý luận mãi sanh nhàm. Hãy lo thưởng thức
những hoa còn lại ở trước mắt.
TUYẾT MAI lựa thêm được hai nhánh. Một nhánh của Hoàng
Khanh ở Bình Định đối chọi nhánh “Nhắn lão vườn” của nữ độc giả đã được giới
thiệu kỳ trước. Một nhánh của VŨ TÒNG ở Kontum “Gởi tặng lão Vườn Thơ”. Nàng
cầm xem hồi lâu rồi lấy kéo xắp những lá lảy rườm rà và những đóa hoa bầm héo,
chỉ còn để mỗi nhánh hai đoá song sanh.
Đây là hoa của họ Hoàng:
Xuân gầy gõ
bướm duyên cành phấn
Thu sụt sùi
mưa lệ bến ngâu.
Và đây thơ họ VŨ:
Bút ngưng ý
nhạc lời gieo ngọc
Mực thấm tình
hoa giấy trải hương.
LA DUNG khen hay. Lão nói:
- Nếu không nhờ bàn tay khéo léo của TUYẾT MAI thì những
đoá hoa kia đã bị khuất lấp trong mớ lá
rậm hoa hư. Giai nhân lắm lúc thật có lợi cho văn chương lắm vậy.
TUYẾT MAI mỉm cười. LA DUNG vội
lấy lại bó hoa trao cho lão khi nãy:
- Phải lắm, những gì không đáng để mà để lại thì rất bất
lợi cho những cái đáng để.
Nói đoạn mở vất tất cả những giỏ
hoa, chỉ để lại có hai nhánh. Một “tức cảnh”, một “tức sự” và mỗi nhánh chỉ còn
vỏn vẹn có hai đoá hoa tịnh để cân phân:
Mây hồng nắng hạ non xung bạc
Trăng gợn song thu nước mạ vàng.
-
Nhẹ gót non mai choàng
gió mát,
Neo thuyền bến lách vọc trăng trong.
Lão khen:
- Đẹp! Cặp trên
dụng công. Cặp dưới tự nhiên, ba chữ “vọc trăng trong” thật liến!
TUYẾT MAI cười: - Rõ là khẩu khí khách phong lưu!
LA DUNG cũng cười: - Văn là người kia mà.
TUYẾT MAI: - Tôi nhận thấy trong số hoa thơ gởi đến
cho Lão vườn đa số thuộc giống Đường luật. Có lẽ vì lão vườn thích thơ Cũ hơn
thơ Mới xui nên thanh khí ứng cầu? Hay người đời nay trở lại thích sự ràng buộc
của người trước?
- Đối với lão,
không có thơ Mới thơ Cũ mà chỉ có thơ dở thơ hay mà thôi. Và đối với Thơ chỉ có
chất thơ và vị thơ là đáng chú ý, còn thể thơ là phụ thuộc, người làm thơ tuỳ
sở thích mà chọn lựa thế nào phù hợp với tâm hồn. Thể Đường luật, qui tắc chặt
chẽ, chỉ thích hợp với những tâm hồn nhã đạm, trầm tĩnh…, những tâm hồn đã được
tiết chế kỹ càng. Đối với những tâm hồn phóng túng, những tâm hồn nhiệt động…
thì Đường luật bị coi là chướng ngại vật, nên rất ghét và tránh xa. Nhưng đã
gọi là Thơ thì dù là Thơ Tự Do đi nữa cũng vẫn có qui tắc, chớ nào có phải tự
do múa gậy vườn hoang. Mà đã có qui tắc tức đã có sự buộc ràng. Có lẽ TUYẾT MAI
đã có nghe lời của văn hào André GIDE?
- André GIDE nói
thế nào?
- Nói rằng: “Nghệ thuật sanh do cấu thúc, sống nhờ tranh
đấu và chết vì tự do”. (L’ art nâit de contrainte, vit de lutte et meurt de
liberté).
LA DUNG:
- Vấn đề nghệ thuật
nói không biết bao giờ cho hết. Hãy gác lại để thưởng hoa của TUYẾT MAI đây .
Vừa nói LA DUNG vừa mở gói giấy: - Đây là nhánh là
giây thì đúng hơn hoa antigone hái nơi lưng thành một blokhaus hoang vắng đứng
dưới bóng chiều tà.
Lửa nguội
lòng chinh chiến
Đỉnh lô cốt
chon von..
Lưng tường
chiều trải bóng
Tươi thắm màu
ty gon.
Lão gật gù:
- Đó là một bức
tranh chấm phá! Lời ít mà ý nhiều! Có phải TUYẾT MAI muốn diễn cái ý “vạn vật
vô tình”?
- Phải. Ngọn lô cốt
kia nào phải vì ghét nhân loại mà phun lửa đạn ra giết người, và cũng không
phải vì thương hoa nên trải lưng cho hoa nương tựa. Còn hoa kia nở dưới bóng
chiều là đến lúc phải nở chớ nào phải để Tuyết Mai thưởng thức rồi hái tặng lão
vườn.
LA DUNG:
- Đây là một bài
thơ tượng trưng, có tánh cách gợi cảm hơn là phô diễn.
Lão tiếp:
- Vì vậy ngoài cái
ý vạn vật vô tình, nó còn gợi hình ảnh con người và dục vọng.Ngọn lô cốt kia là
thân xác của con người. Những người núp trong lô cốt với súng đạn là dục vọng.
Khi dục vọng nổi dậy thì con người trở nên xấu xa và độc ác biết bao nhiêu. Nhưng
khi tham sân si đã diệt được hết rồi, thì còn gì đẹp đẽ bằng hình ảnh con người
giác ngộ: cao siêu tự tại như ngọn tháp đầu non, và hiền lành như bóng chiều,
vui tươi như màu hoa sắc lá.
TUYẾT MAI: - Ý tưởng ấy, xin thú thật rằng tôi không
nghĩ thấu. Lão vườn đã phong phú thêm cho bài thơ.
Lão đáp: - Có nhiều khi ý tưởng nằm sâu trong tiềm
thức, nhân cơn hứng nổi dậy mà theo ra cùng văn chương. Tác giả vô tình không
trông thấy, nhưng độc giả hữu ý nên tìm ra.
LA DUNG: - Nhìn vào mặt nước, khách si tình thấy bóng
mình, thường tưởng là bóng tình nhân.
Lão cười: - Tây Thi nhìn thấy bóng mình trong lòng
giếng Cô Tô. Narcisse trông thấy bóng mình dưới giòng khe ngưng tuý. Rồi Tây
Thi yêu giếng, Narcisse mê khe. Ý hẳn chàng cũng như nàng đã lầm tưởng bóng mình
là bóng khe giếng? Nhưng nói chi thì nói, chớ nước mà đã in rõ được bóng người
soi thì chất nước nhất định phải trong lắm lắm. Mà còn gì quí hơn chất thơ
trong?
Khách thích ý cười to. Nhưng khí nóng của mặt trời quá
buổi giục khách phải tạm biệt.
12.
Nghe tin lão đi Nam Đô vừa về bạn Hồng Sơn đến thăm:
-
Đi Nam Đô về có
đem về được nhiều hoa thơ quí giá chăng hỡi?
-
Đi không chẳng lẽ
lại về không.
Nhưng hoa thơ lão đem về đây không phải hái cũng không
phải mua trong cảnh tưng bừng nhộn nhịp của Đô thành. Ở nơi phồn hoa đầy hoa:
Hoa Giai Nhân, hoa Dalat, hoa ni lông, hoa đèn điện… nghìn sắc muôn hình. Nhưng
thiếu hoa thơ, vì quá náo nhiệt, nàng Thơ phải lánh mình trong những nơi đường hẻm, ngõ sâu.
Đi chơi cùng lão có anh chàng họ CAO và anh chàng họ
NGUYỄN. Biết lão muốn tìm nàng Thơ, hai chàng bèn rủ vào vườn Thảo Cầm mà xưa
kia gọi là Vườn Bách Thảo, là nơi có rào chắn ngựa xe.
Trong vườn nầy có nhiều cây to và nhiều thú, chớ không
phải chỉ có những giống cỏ và những giống chim, như tên đã đặt. Và ở đây cũng có nhiều giống hoa
như ở ngoài phố.
HỒNG SƠN:
-
Trong nơi yên
tịnh, đã có nhiều hoa thì chắc là nhiều thơ lắm lắm?
Lão cười:
-
Chắc tìm cũng
không thấy thơ, nếu không gặp được ông VƯƠNG HỒNG SỂN ở Tàng Cổ Viện trong Thảo
Cầm Viên.
Hồng Sơn vỗ vế cười ngất: - Thế thì Vương tiên sinh đã
“ cù” nàng Thơ vào Tàng Cổ Viện rồi chớ gì?
-
Không phải nơi
Tàng Cổ Viện, mà nơi mấy chén cổ, tô cổ của ông.
Ngoài bộ chén Mai Hạc có in câu thơ lục bát của cụ
Nguyễn Du đề lúc đi sứ sang Trung Hoa:
Nghêu ngao
vui thú yên hà,
Mai là bạn
cũ, hạc là người quen.
Ông Vương còn có một cái chén và một cái tô cổ vẽ sơn
thuỷ và đề thơ Nôm.
Trên chén vẽ một người hành khách đứng bên ngựa, ngước
mặt nhìn một cảnh cung điện nguy nga. Bên cạnh đề 4 câu thất ngôn rằng:
Một cảnh lâu đài tốt mỉa tiên
Những con mắt tục ắt ưa nhìn .
No nao tay phiếm giây cầm sắc
Kẻo nhọc thung thăng sứ điệp truyền.
Bài này lão nghi là của PHAN HUY ÍCH đời Tây Sơn, vì
tương truyền rằng khi đi sứ sang Trung Hoa cùng Vũ Văn Dũng, họ PHAN có đề tặng
một nhà làm đồ sứ một bài thơ, mà văn chương bài nầy thật giống văn họ PHAN.
Nhưng đó chỉ là ức đoán chớ không có chi làm bằng.
Còn chiếc tô của ông VƯƠNG là một tô chữ NHẬT vẽ phong
cảnh nước non, và đề một bài ngũ ngôn bát cú:
Một thức nước
in trời
Đò ai chiếc
lá khơi .
Non cao xem
vọi vọi,
Giòng biếc
thấy vơi vơi.
Mắn khúc
Thương Lang khảy,
Ở đây nhiều
khách chơi
Mong chờ yên
sóng gió,
Qua lại mặc
người đời.
Ông VƯƠNG bảo rằng chiếc tô này do vua Tự Đức đặt
người Trung Hoa làm, nhưng chưa kịp phân phát ra ngoài dân gian thì vua băng,
nên tô nầy ít nơi có.
Cũng như bài tứ tuyệt trên, bài bát cú này do ông
Vương đọc cho lão nghe, chớ lão chưa được nhìn nét chữ ẩn hiện dưới nước men
Trung Hoa. Và bài ngũ ngôn bát cú nầy lão thấy có sách chép dưới nhan đề là “Đề
tranh sơn thuỷ” với đôi chỗ hơi khác:
Một thức nước in trời,
Đò ai chiếc lá khơi,
Non xanh cao vọi vọi,
Giòng biếc chảy vơi vơi,
Mắn khúc Thương Lang gảy
Ua tình lữ khách chơi.
Mong chờ yên sóng gió
Qua lại mặc người đời.
Ông Vương còn cho biết rằng chén Mai Hạc có đến hai
thứ, hình vẽ giống nhau, nhưng một thứ đề câu thơ lục tát của cụ NGUYỄN DU, một
thứ đề 2 câu ngũ ngôn chữ Hán:
Mai sơn xuân
tín tảo,
Tiên hạc tháp
vi đầu.
Nghĩa là:
Tin xuân mai
mách sớm,
Tuổi thọ hạc
bay cao.
Nói đến đồ cổ, lão chợt nhớ đến câu chuyện lão được
nghe lúc thiếu thời. Rằng:
Một hôm có người Trung Hoa đến tặng bà Huyện Thanh
Quan một bộ chén sứ, và xin bà một câu đối. Bà liền hạ bút viết hai câu thơ
nôm:
Như in thảo
mộc trời Nam lại,
Mang cả sơn
hà đất Bắc sang.
Người Trung Hoa không hiểu ý nghĩa câu thơ như sao,
mừng rỡ đem về Tàu, và lần sau sang, đem đến tặng bà huyện một bộ chén có in
hai câu thơ ấy. Một người xem thấy, nói đùa:
-
Phải chi sự thật
được như thơ, thì dân tộc Việt Nam không đến nỗi phải dùng đồ đất!
Kể cũng là một chuyện có lý thú, song nếu mắt được
nhìn thấy bộ chén có 2 câu thơ của bà Huyện Thanh Quan, thì thú càng thêm thập
bội.
Hồng Sơn cười:
-
Hoa thơ Việt Nam
mà mọc trong men Trung Quốc, ngày xưa đã lấy làm quí, đến bây giờ lại càng quí
biết bao! Vừa nghèo vừa quê như chúng mình, làm gì có những bảo vật ấy, để mà
thưởng thức! Nhờ lão vườn cao hứng đi Nam Đô mà già này biết thêm được đôi cái
chưa biết. Đó cũng là DUYÊN. Nhưng đó là hoa trong men sứ. Thủ đô là nơi tụ tập
nhân tài, có lẽ lão vườn cũng có hái được ít nhiều hoa của các thi hào thi bá?
Lão liền vào nhà, khuân ra một chồng cao “hương sắc”:
-
Đây là của Vũ
Hoàng Chương, đây là của Đinh Hùng, đây là của Đông Hồ, Mộng Tuyết, đây là của
Bùi Khánh Đản, đây là của Hà Thượng Nhân, đây là của Bút Trà thi ông..
Hồng Sơn vội ngắt lời:
-
Các danh nhân
trước, lão vườn chỉ kể tên, sao đến Bút Trà, lão vườn lại phải thêm 2 chữ thi
ông ở cuối?
-
Bởi vì trên 30
năm nay người ta chỉ biết có bà BÚT TRÀ là một vị phu nhân đã dùng ngòi bút và
giấy mực, tạo nên sự nghiệp “ vĩ đại” ở Việt Nam. Nay nếu chỉ nói trổng hai tiếng
BÚT TRÀ thì sợ e có cảnh “cằm râu lầm lẫn”.
-
Thơ của BÚT TRÀ
thi ông có hay chăng?
Lão thành thật đáp:
-
Cũng như các thi
nhân lão vừa kể và hầu hết các tao khách trong nước, thơ Bút Trà đã hành thế.
Hoa thơ đã
bán chợ đời,
Vườn lòng đã
mở cho người thưởng chung.
Thì xin mời bác “tuỳ thích tuỳ nghi” vậy.
Hồng Sơn ung dung ngồi xem những giai phẩm từ Nam Đô
lão mang về:
-
Cỡi ngựa xem hoa,
không thể nhận thức được chu đáo. Già xin mượn câu thơ của Lão Vườn, để phát
biểu ý kiến, sau khi xem xong các tập còn thơm nét mực đô thành:
Hoa nào hoa
lại không hương sắc,
Một cánh hoa
tươi một điểm tình.
Lão biểu đồng và tiếp:
-
Riêng về ĐÔNG HỒ
và BÙI KHÁNH ĐẢN, ngoài những giai tác đã in thành sách, hoặc đã đăng lên báo
chí, hai nhà còn nhiều văn thơ mới lọt qua mắt năm mười bạn tương tri như:
ĐỀ VƯƠNG GIÃ HƯƠNG ĐÌNH
Đâu đây
thoang thoảng gió hương ngàn?
Hương gió
ngàn chăng? Hương gió lan?
Cho mực đượm
vào hương sực nức,
Cho thơ hoà
với gió mơn man..
Phương tâm tìm
được trong vương giã,
U cốc gần
nhau giữa thế gian.
Dầu chẳng đá
rêu dầu chẳng suối,
Lòng tiên cõi
tục cũng thanh nhàn.
Bài bày tác giả tự
tay viết viết chữ quốc ngữ bằng ngòi bút lông – thành 1 bức trướng rất
đẹp…
Hồng Sơn chận lại: - Khoan. Vương Giả Hương Đình ở nơi
nào, xin cho biết trước đã, rồi muốn nói chi thì nói.
Lão cười: - Là Đình thơm của Đông Hồ ở tại Sài Gòn vậy.
Bốn chữ này nếu viết “Vương-Giả Hương Đình” thì có
nghĩa là Đình thơm của bậc Vương giả. Còn viết “Vương Giả Hương Đình” thì nghĩa
là Đình đầy mùi hương Vương giả, tức là Đình hoa lan. Nghĩa tuy khác nhưng ý
vẫn như nhau, cho nên chủ nhân viết không có những ngang nối, để cho rộng
nghĩa.
-
Lão Vườn đã đến
Vương Giả Hương Đình chưa?
- Lão có đến
thăm Đông Hồ mấy lần. Song nơi chủ nhân tiếp lão, không biết có phải là Vương
Giả Hương Đình chăng. Lão không thấy hoa lan, nhưng mùi hương sực nức, vì hai
đỉnh trầm luôn luôn cuốn khói xanh.
Đông Hồ có phong thái của người xưa, và thi sỹ sống
một cuộc đời phong lưu đài các, có thể nói là một cuộc đời vương giả.
Hiện giờ tại
Thủ Đô cũng có một số nhà văn nhà thơ sống trong cảnh phú quí. Song giàu thì
giàu, sang thì sang, vẫn nhượng Đông Hồ, đọc bài thơ trên, Già cũng thấy qua
được con người của thi sỹ.
Còn BÙI KHÁNH ĐẢN?
Lão lấy tập Đường thi trích dịch của họ Bùi đưa cho
ông bạn:
- Chỉ làm được
bấy nhiêu công việc cũng đã hết sức hết hơi. Thế mà đó mới là phần I, còn phần
II nữa dày gần gấp đôi. Chưa hết, Bùi quân sắp cho ra đời một tập thơ gồm 400
bài sáng tác. Sức bút của họ Bùi thật là khoẻ, tứ thơ của họ Bùi thật là giàu.
Và đây lão xin giới thiệu cùng bác một bài tác giả vừa
mới làm ngày 01/02/62:
BẠCH CHỈ HOA
(Đề dàn hoa giấy trắng trên cụm hoa giấy hồng tại tư
thất Đoàn Thi sỹ)
Bạn hỏi: Mây tan hay tuyết rơi ?
Thưa: Thơ nghìn mảnh nguyệt đương cài.
Lá phô nền biếc đàn thân mật,
Hoa rủ khung hồng kết thắm tươi.
Đài khép thanh sương trời sớm đọng,
Cánh đưa luân vũ gió đông cười.
Dù cho giây phút dù muôn thuở
Cũng đã nên duyên cảnh với người.
Văn thật là già dặn, tứ
thật là mới mẻ. Trong làng Thơ Đường luật hiện thời, những bài như Bạch chỉ
hoa, Vương Giã Hương Đình... là những ngôi sao trong lúc trời gần sáng!
BÙI KHÁNH ĐẢN và ĐÔNG HỒ
thường qua lại với nhau trong bút mực. Tự đề Đường Thi trích dịch, Bùi quân có
bài:
GIÓ NHẸ TRĂNG NON
Đây chút tơ tằm trả nợ sâu
Đem lòng người trước gởi người sau.
Mong làm gió nhẹ qua hiên gác,
Luống thẹn trăng non xế mái lầu!
Ai xót Thanh Liên bờ Thái Thạch,
Ta sầu Đỗ Mục đất Dương Châu.
Đêm đêm đọc lại dòng thơ cũ,
Có thấy tâm tình gặp gỡ nhau.
ĐÔNG HỒ hoạ vận, dười đầu
đề THỬ TÀI LÝ ĐỖ:
Chớp mắt tàn theo mấy bể dâu
Nghìn xưa còn sống với nghìn sau.
Thời gian mực xoá bờ kim cổ,
Hồn mộng thơ xây nếp thấn lầu.
Đàn sáo dặt dìu ca vũ địa,
Vàng son lộng lẫy đế vương châu.
Đâu là Lý Đỗ đâu Bùi Đỗ.
Khéo trộn vào nhau cho lẫn nhau.
HỒNG SƠN: - Thật xứng đào xứng kép. Nhưng trong câu chuyển bài
của Đông Hồ, có chữ BÙI ĐỖ, Bùi là Bùi Khánh Đản còn Đỗ là của ai?
Lão lật quyển Đường Thi
trích dịch:
-
Đỗ bằng Đoàn, người cộng tác cùng Bùi quân trong việc dịch Đường Thi.
Bùi quân lo việc dịch vần, Đỗ quân lo dịch nghĩa và chú thích.
Hồng Sơn: - Thơ Đông Hồ có vẻ đài các. Thơ Bùi Khánh
Đản đượm buồn.
Lão đáp “Thơ là Người” rồi đọc tiếp bài thơ của Bùi quân
đã “Trả lời” cho những bạn đọc quen biết:
Đừng hỏi thơ sao vẫn đượm buồn.
Đời tôi: lá úa đọng hoàng hôn.
Tình theo sương nhạt tan đầu núi
Ý gởi trăng mờ lạc cuối thôn.
Bốn ngả anh em đều góp hận,
Hai phương sông núi đã chia hồn.
Vườn hoang còn một bông hồng nhỏ,
Mưa gió e rồi cũng rụng luôn!
Hồng Sơn cảm động. Một thoáng mây buồn lướt qua gương
mặt lúc nào cũng thấy vui. Ông bạn khe khẽ ngâm:
Vườn hoang
còn một bông hồng nhỏ,
Mưa gió e rồi
cũng rụng luôn!
Và nói:
-
Sao bi quan đến
thế? Trong bài, 2 câu này và câu thứ 2 thật hay. Cổ nhân thường nói “Đời sông
của Bùi quân đối với Đông Hồ chắc cũng bên chú bên bác?
Tự nhiên lão cảm thấy buồn, nhưng với giọng thản nhiên
lão đáp:
-
Vì sanh kế BÙI
KHÁNH ĐẢN thi nhân đã trở thành một công chức làm việc một ngày hai buổi tại
nhà Văn Hoá saigon.
HỒNG SƠN cười: - Như thế BÙI quân vừa là bạn đồng điệu
vừa là bạn đồng nghiệp với Lão Vườn.
-
Đồng nhưng bất
đồng. Riêng nói về nghiệp: Bùi quân là 1 công chức văn hoá. Lão là một công
chức hành chánh…
Tuy thế vẫn là công chức.
Mang lấy nghiệp công chức, lắm lúc thật buồn cho sự
nghiệp văn chương. Tuy văn chương là lẽ sống ở đời, nhưng hết 7 phần trăm thì giờ
phải bỏ ra để lo tròn nhiệm vụ người công chức . Lại còn một sự thật rất đau
xót: Hồn thơ Đường không phù hợp với cuộc đời hành chánh, nên tình đời khi ghét
khi thương…
Nửa trái đào tặng bạn đương khi bạn vui, thì bảo đó là
tình chân thành tha thiết. Cũng nửa đào ấy mà khi ghét, thì người tặng đào bị
mang tiếng khinh ngạo khi thường.
Đã bao lâu hồn Thơ lạc loài nơi các công sở, văn
nghiệp bị thương tổn khá nhiều, mà nạn nhân là lão, vì gánh nặng gia đình, phải
cam lòng chịu vậy.
Nghĩ phận lão, lão chạnh thương Bùi quân.
Nhưng lão lại mừng cho Bùi quân, vì bùi quân được làm
việc trong một công sở lo về việc văn hoá, lại gặp được ông phó giám đốc là một
nhà văn có bụng lẫn tài. Bùi quân khỏi bị sống bơ vơ giữa những người suốt đời
xa lạ tuy sớm thấy mặt nhau, chiều thấy mặt nhau.
Hồng Sơn đứng dậy cáo từ, vừa đi vừa ngâm lớn:
Đã mang lấy
nghiệp vào thân,
Cũng đành
trách lẫn trời gần trời xa.
Lão ngâm tiếp:
Trăm năm
trong cõi người ta,
Đá vàng đã
quyết phong ba cũng liều.
Văn chương
mang luỵ dẫu nhiều,
Vườn hoa thơ
miễn mai chiều phấn hương.
(1962)