TIẾP KHÁCH
HOA THƠ [6]
13.
Sau khi xa cách Vườn Thơ, Chức Thành có câu:
Nhớ vườn hoa
nở ngọt ngào,
Dưới trăng
chung bóng ra vào cùng thơ.
Nhưng đã ngót mấy năm nay, nàng không có thơ từ chi
cho Vườn Thơ cả. Lão đinh ninh rằng:
Hoa còn đượm
mãi vườn xưa,
Lòng thơ năm
trước bây giờ đã phai.
Vừa rồi trong khi không chờ đợi, lão nhận được hai
nhánh hoa thơ nàng gởi tặng vườn:
DŨ BỤI PHIỀN BA
Thinh thinh
áp dũ bụi phiền ba,
Vui với con
thơ với mẹ già.
Dâu lúathú
quê mùi đạm đạm,
Ráng mây tình
bạn bóng xa xa.
Dịu dàng cánh
bướm hương đưa mộng,
Mát mẻ vườn
thơ gấm trải hoa.
Thương kẻ
tình duyên xuân mới nở
Bên thêm hoa
lý lắng oanh ca.
NƠI THÔN QUÊ
Quên tính
trăng thu mấy độ tròn,
Mùi quê quen
thú lợt mà ngon.
Chuyện đời
theo nước trôi đi hết,
Tình cũ trong
thơ mở vẫn còn.
Am ỷ ngọn đèn
canh nhớ bạn,
Dịu dàng tao
võng khúc ru con.
Mây ai biết
được lòng vui tẻ
Mỗi bận xuân
về dịch véo von.
Xem tình ý trong thơ, lão tự cười mình hay nghi ngờ lẩm
cẩm:
-
Tình thơ xưa cũng
như nay, đông cũng như tây, có bao giờ phai lạt. Tuổi già hay nghĩ lếu thật!
Lão còn đương gật gù ngâm:
Chuyện đời
theo nước trôi đi hết,
Tình cũ trong
thơ mở vẫn còn.
Thì có khách đến: Bác Vân Sơn TRẦN QUANG DỤC và chị
MINH LỆ, một người bạn mới của Vườn Thơ.
Đương lúc cao hứng lão giới thiệu ngay với khách hai thi
phẩm của Tuyết Nga. Bác VÂN SƠN trầm ngâm giây lâu rồi nói:
-
Lời thơ thanh
lão. Vị thơ mới nếm qua đường lợt, nhưng càng chíp chắp càng đượm đà. Câu:
Dịu dàng cánh
bướm hương đưa mộng,
Mát mẻ vườn
thơ gấm trải hoa.
Thật kịch sự!
MINH LỆ tiếp: - Văn chương đã luyện quá thành ra tự
nhiên. Câu:
Am ỷ ngọn đèn
canh nhớ bạn
Dịu dàng tao
võng khúc ru con.
Rung cảm lòng người một cách nhẹ nhàng nhưng thấm
thía. Cảnh thì là cảnh thông thường mà tình lại là tình riêng biệt.1 tấm điềm
đạm nhưng thiết tha.
VÂN SƠN: - Nếu người của tác giả không sống trong cảnh ấy, lòng của tác giả không
sống với cảnh ấy, nghĩa là thơ nhất định phải chơn.
Lão tiếp: - Mà thơ muốn chơn thì trước hết người làm
thơ phải có tánh tình. Nếu không tánh tình mà cố gắng làm cho có thơ, thì thơ
ấy chỉ là những nhánh không hoa lá. Dù có cách vẫn không có thú.
VÂN SƠN: - Có nhiều người không mừng mà reo, không
thương mà khóc… Nhưng họ reo cũng rất dòn, học khóc đến ra nước mắt! Những kẽ
ấy tưởng có tài làm thơ đấy chớ?
Lão cười: - Bác làm lão nhớ đến 1 câu chuyện trong Tuỳ
Viên Thi thoại.
-
Câu chuyện thế
nào?
-
Có một thầy đồ
đến xin nương tựa nơi một nhà quyền quí. Để tỏ tài văn chương của mình, thầy đồ
dâng lên một tập thơ. Nhà quyền quí lặng lẽ ngồi xem, xem hết trang này đến
trang khác, không một lời khen cũng không một tiếng chê. Sau đọc đến bài “Thuận
hoài” có câu:
Cha chết nằm
Vỵ bắc,
Em đày sang Giang Đông. (1)
Nhà quyền quí buông
sách thở dài, và than: “Tình cảnh sao mà thảm quá thế!”. Thầy đồ liền đứng dậy
khúm núm bẩm rằng: “Bẩm Đại Nhân, sự thực thật không có như thế. Ngu phu mồ côi
cha từ lúc thơ ấu, và trên không anh, dưới cũng không em. Nhân nhớ đến cảnh Vỵ
Bắc mà phải dùng cảnh Giang Đông để đối cho chỉnh, và đã có cảnh rồi phải mượn
tình lồng vào cho câu thơ có đủ cảnh đủ tình vậy thôi.
MINH LỆ: - Ở đời sao lại có người kỳ cục đến thế?
Lão đáp: - Đó là không bệnh của những người “ cốt lý
vô thi” mà lại sính làm thi, chớ có gì là lạ.
VÂN SƠN ngắt lời: - Kết thúc câu chuyện “Vỵ Bắc Giang
Đông” thế nào?
-
Không thấy Tuỳ
Viên nói. Nhưng chắc nhà quyền quí mời thầy đồ sang Vỵ Bắc hay Giang Đông, vì một
người không thành thật trong văn chương, thì ngoài đời nhất định không thể thành
thật được, mà người đời ai lại thích gần người không thành thật làm chi?
MINH LỆ cười: - Nếu không do miệng thầy đồ nói sự thật
ra thì ai biết được rằng thơ thầy nói dối.
Lão đáp: - Hồ ly là giống dấu đuôi rất khéo mà nhiều
khi còn bị lộ, huống hồ loài người không tinh ranh bằng hồ ly. Vì thế nhà thi
hào Racine của Pháp quốc nói rằng: “II n’y a point de secret que le temps ne
révèle”, nghĩa là không có điều bí mật gì mà thời gian không tiết lộ.
VÂN SƠN: - Nãy giờ mãi ham chuyện người mà quên chuyện
mình!
-
Chuyện gì thế!
-
MINH LỆ có một ít
hoa thơ muốn tặng lão vườn, nhưng e ngại nên cậy già đến mở “Lời phi lộ”.
-
Lời phi lộ đã mở
rồi, vậy hãy cho lão xem thơ.
MINH LỆ rụt rè: - Đem Vạn Thọ, nở ngày… đến nơi vườn
đầy tường vi, thược dược… thì thật là…
Lão cười, ngâm:
Thanh bằng
cung chuỷ đô tu tuý,
Vị tẫn toan
hàm chỉ yếu tiên.
VÂN SƠN: - Thơ của ai thế?
-
Của Viên Mai.
MINH LỆ: - Viên Mai là người đời nào? Và câu ấy nghĩa
như sao?
-
Một đại thi hào
đời Thanh. Ông ấy luận thi thì dường khoan mà kỳ thật rất nghiêm. Khi soạn bộ
Tuỳ Viên thi thoại, ông đặt ra câu kia để làm khẩu hiệu, đại ý nói rằng: “Tiếng
thì cung tiếng chuỷ chi cũng được miễn sao cho dòn; Còn mùi thì chua mặn chi cũng xong, cốt cho
tươi là được”.
Người đồng thời của Viên Mai là TỪ SƠN cư sỹ lại có
câu:
Thi chơn khởi
tại phân Đường Tống
Ngữ diệu hà
tằng lộ khắc điêu
Nghĩa là “Thơ hay há phải chia ra Đường Tống; Lời diệu
cần chi phải có sự chạm trổ”, tức là thi cốt ở tánh tình, và không cần phải
giống thơ Đường hay thơ Tống mới gọi là hay. Mỗi lần bàn luận về thơ lão không
quên hai câu thơ ấy. Vậy MINH LỆ không nên ngại lòng.
MINH LỆ trao tập thơ. Lão xem qua một lượt, nhận thấy
phần nhiều nói đến thân phận, tả về nỗi lòng.. Có một số bài văn chương đã
luyện lắm. Trổi nhất là bài “Chắp mối tơ thưa”.
Tơ đứt cầm
loan chắp mối thưa
Ba năm chung
gối mộng thờ ơ
Tình xưa nỡ
để trôi giòng biếc
Kiếp sống
thôi đành ủ giấc mơ.
Gượng nét tàn
dung vui với cảnh,
Gói niềm tâm
sự gơỉ vào thơ…
Nỗi lòng ai
xét ai không xét
Thương cũng
nhờ ơn ghét cũng nhờ.
VÂN SƠN: - Theo già nầy thì
bài “NHỚ HUẾ” ở trong tập cũng là một nhành hoa khả thủ.
Chẳng biết bao giờ viếng cố hương
Cho vơi nỗi nhớ cạn niềm thương.
Gió trăng Cù hải tuỳ đằm thắm,
Mây ráng Bình sơn mãi vấn vương.
Bến nước còn sâu tình Vỹ Dạ?
Nhịp cầu đã bắt nghĩa Kim Luông ?
Đêm qua giấc ngủ rủ hồn theo mộng,
Con bướm ngu ngơ dẫn lạc đường!
Lão gật đầu:
-
Văn chương lưu
loát lắm. Câu kết thật liến! Lời trong tứ mới. Những câu thơ như thế không phải
lúc nào cũng làm được, chứ không phải người nào cũng làm được.
MINH LỆ:
-
Lão Vườn muốn khuyến
khích mà khen quá lời chăng?
Lão đáp :
-
Thơ không hay mà
khen thì lời khen chẳng những không có lợi cho người được khen mà còn làm hại
cho người khen. Lão đâu có dại. Có người trách lão sao hay khen mà ít thấy chê.
Lão chỉ đáp: “Bởi vì lão nhận thấy hay thì lão khen, còn lão không trông thấy
dở thì bảo lão chê thế nào được”. Nói là nói vậy, chứ thật ra lão không dám chê
ai, nhưng khen người cũng không phải đụng đâu khen đó.
VÂN SƠN: - Thơ hay thì mỗi bài hay mỗi vẻ. Xem thơ thì
mỗi người thích mỗi cách. Lời khen chê phần nhiều do sở thích mà ra. Ca dao có
câu:
Hoa huệ hoa
lan hoa lài hoa lý
Anh yêu hoa
nào hoa ấy là xinh.
Cho nên người xem thơ thấy thích thì cứ khen, khen cho sướng miệng; người nghe khen
thấy thú thì cứ nghe, nghe cho sướng tai; chớ hơi đâu ngại lời thị phi, phi
thị.
Lão cười: - Vậy hãy khen một câu nữa trong tập cho thêm
vui.
VÂN SƠN: - Câu nào?
-
Câu kết bài “Nhập
đoàn Thanh Nữ tự trào”.
Ghé tai chàng
lén thì thầm hỏi:
Thanh nữ sao
mà lại lắm con?
-
Thật là dí dỏm!
Lão Vườn quả tinh mắt. Chình già này xem tập thơ đã nhiều lần mà không để ý.
-
Đó là vì những
câu trên có phần vụng, nếu không chịu khó tìm thì thường bỏ rơi.
MINH LỆ: - Không phải vì MINH LỆ, mà chính vì vườn hoa
thơ, chính vì Hoa vì Thơ thì đúng hơn. Bởi:
Hoa thơm ai
nỡ bỏ rơi.
Thơ hay ai nỡ
tiếc lời khen hay.
VÂN SƠN: - Lão Vườn thường ngâm câu ấy, và nghe ngâm
có một ít bạn gởi hoa thơ đến cho vườn. Không hài lòng khi thấy tác phẩm mình
không được tán thưởng.
MINH LỆ: - Sao thế?
VÂN SƠN cười: - Vì “tự kỷ văn chương” chứ sao!
Lão phân trần: - Kể ra cũng đáng trách chớ chẳng
không. Vì ngoài những nhánh hoa khô héo, có nhiều nhánh đủ sắc đủ hương, có
nhiều nhánh đầy nhựa sống, song chỉ danh rieng cho tác giả cùng lão vườn thưởng
thức với nhau mà thôi chớ không tiện chưng bày ra giữa nghìn mắt… Như vậy:
Nỗi lòng ai
xét ai không xem,
Thương cũng
nhờ ơn ghét cũng nhờ.
VÂN SƠN:
-
Câu chuyện văn
chương còn dài. Bây giờ chúng tôi xin tạm biệt.
Đưa khách ra cửa, lão ngâm đùa:
-
Không ở không cầm, cầm chẳng ở.
VÂN SƠN đối ngay:
-
Vừa đi vừa tiếc, tiếc nhưng đi.
MINH LỆ ngâm tiếp:
Tái lai còn
lắm giai kỳ.
Ra về mượn ít
hương thi đem về.
_________________________________________________________
(1) Hai câu thơ của thầy đồ bằng chữ Hán nhưng vì lão quen nên phải thay 2 câu thơ trên diễn đúng ý tác giả, (hoặc có sai đôi chút nhưng không sai xa)