TIẾP KHÁCH
HOA THƠ [7]
14.
Vừa rồi ra Bình Định, lão có hái được một ít hoa,
hương không nồng lắm, sắc không thắm lắm, nhưng đượm đà khí vị non sông.
Phần nhiều là những dã hoa mọc nơi cổ tháp Chiêm
Thành.
Đây khóm hoa tháp PHỐC LỐC:
Lên thăm hòn
Phốc lốc,
Núi cao đường
dốc,
Em nghĩ
thương dân tộc người Chiêm:
Gặp cơn bể
nổi dâu chìm,
Đã không
người vá khuyết lại không chim lấp thù!
Tháp đành ôm
hận nghìn thu,
Nấu nung vàng
đá mịt mù khói mây…
Nhưng em nghĩ
rằng:
Trời còn đây
đất cũng còn đây,
Lẽ đâu trục đất
lại không vần xây cơ trời.
Tháp Phốc Lốc tên chữ là Phú Lộc, Pháp gọi là Tour
d’or (Tháp vàng), đứng trên hòn thổ sơn ở giữa cánh đồng mênh mông, một thửa
thuộc Phù Cát một nửa thuộc An Nhơn.
Đối diện cùng tháp Phốc Lốc là tháp CÁNH TIÊN. Tháp ở
trong phạm vi thành Đồ Bàn. Gần bên tháp có lăng miếu thờ hậu quân Võ Tánh. Vì
vậy bên tháp có một khóm hoa mọc đã trên một thế kỷ rồi, cánh đã khô mà hương
còn ngát:
Ngó lên hòn
tháp Cánh Tiên,
Cảm thương
ông Hậu thủ thiền ba năm.
Cách tháp Cánh Tiên chừng mươi cây số, bên cạnh quốc
lộ số 1, gần cầu Bà Di, có tháp BÁNH ÍT đứng trên một ngọn núi cao, in bóng
xuống dòng sông xanh bên đường cái. Qua đây lão hái, được nhánh hoa nầy:
Tháp Bánh Ít
đứng khít cầu Bà Di
Sông xanh núi
cũng xanh rì,
Vào Nam ra
Bắc ai cũng phải đi con đường này.
Nghìn thu
gương cũ còn đây,
Lòng ơi, hãy
lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu.
Xuống đến địa dầu thành phố Qui Nhơn thì thấy hai
chiếc cầu bắt song song bên đường Quốc lộ. Tháp ấy gọi là THÁP ĐÔI, và cầu ấy
gọi là CẦU ĐÔI. Những cặp yêu đương ở đó thường hái những đoá hoa này để tặng
nhau:
Tháp kia còn
đứng đủ đôi,
Cầu nằm đủ
cặp, huống chi tôi với nường.
Tháp ngạo
nắng sương,
Cầu nương sắt
đá.
Dù người
thiên hạ
Tiếng ngã lời
nghiêng,
Cao thâm đã
chứng lòng nguyền,
Còn cầu còn
tháp còn duyên đôi đứa mình:
Non sông nặng
gánh chung tình.
Nếu chúng ta đi ngược dòng sông Côn đến quận Bình Khê
thì chúng ta thấy ở hai bên sông có hai cụm tháp. Cụm phía Bắc ba ngọn đứng
trên một nổng gò đất sỏi. Đó là tháp DƯƠNG LONG. Cụm phía Nam, một ngọn đứng
trên một dãy gò thấp chung quanh có ruộng nương nhà cữa. Đó là tháp THÚ THIỆN.
Hai tháp nầy xưa kia làm móc ranh giới cho ấp Tây Sơn là nơi phát tích nhà Tây
Sơn. Gần đây nhà anh hùng Mai Xuân Thưởng, lãnh tụ đảng Cần Vương Bình Phú, xây
đồn luỹ ở núi Hương Sơn gần bên tháp, để đánh Tây. Do đó mọc lên một khóm hoa
mà người Bình Khê luôn luôn gìn mưa giữ nắng:
Vững vàng
tháp cổ ai xây?
Bên kia Thú
Thiện bên này Dương Long.
Nước sông
trong
Dò lòng dâu
bể,
Tiếng anh
hùng
Tạc để nghìn
thu.
Xa xa con én liệng mù,
Tiềm long hỏi chốn vân du đợi ngày.
Nhân đi tìm hoa nơi tháp Thú
Thiện và Dương Long, lão ghé lên Phú Phong ở gần đó, mà người Bình Khê có vịnh
rằng:
Nhất huyện Bình Khê đất Phú Phong,
Ruộng nương màu mỡ chợ làng đông.
Chàm pha núi Kính cây sum trái,
Lụa trải sông Côn nước khoả dòng.
Cây Cốc phố phường danh Tấn Sỹ;
Đồng Hưu đồn luỹ hận anh hùng.
Cổ Bàn non nước còn thiêng mãi,
Có thuở Hầm Hô cá hoá rồng.
Muốn biết phong cảnh Hầm Hô như
sao mà cá lại hóa rồng được, lão nhờ người địa phương đưa đi xem.
Đó là một dòng suối rộng lớn chảy
giữa hai dãy núi sườn đứng sững và đá mọc ngổn ngang. Lòng suối cũng đá là đá.
Hòn hòn to như bồ đựng lúa. Nhiều hòn đá bị nước chảy lâu ngày biến thành những
hình dạng kỳ quái. Có nơi trông như bầy voi tắm. Có nơi trông như bầy ngựa đua.
Vân vân…
Lại có một ngọn thác nước chảy ồ
ồ. Mùa gió Nam và mùa nước lụt, cá sông về nguồn đẻ phải nhảy qua thác này. Ông
già bà cả bảo rằng đó là cá thi để hoá rồng. Cho nên thác gọi là Long Môn hoặc
Vũ Môn, và người Bình Khê dựa vào đó mà có câu “Hầm Hô cá hoá rồng” vậy.
Vào Hầm Hô, lão thấy nơi vách đá
có nhiều hoa mọc lắc la lắc lẻo trong im lặng. Sẵn tay lão hái một nhánh gần:
Nguồn ân núi Tượng Nhảy sông Côn,
Qua suối Hầm Hô nước dập dồn.
Dòng cuốn ngựa voi sừng sững đá,
Bờ xây tàhnh quách trập trùng non.
Lấp hờn, giục giã mây xua sóng,
Vá khuyết, chơi vơi cuốc gọi hồn.
Ngòi lạch nhắn nhe bầy cá trẻ:
Nắng mưa rèn luyện chí long môn.
Xem Hầm Hô xong, lão trở về Phú Phong,
tình cờ đi ngang qua một dãy gò có dấu nền cũ chứng tỏ rằng nơi đây xưa kia có
những toà ngang dọc. Hỏi thăm, người địa phương cho biết rằng gò đó là gò Cây
Cốc, trước chiến tranh có hãng dệt của ông L.ĐELIGNON tục gọi là ông Tấn Sỹ. Hãng
dệt to lớn, đã nuôi sống hàng ngàn thợ thuyền do đó xứ Cây Cốc trở nên một nơi thị tứ. Hãng dệt bị
Việt Minh phá hoại năm 1947. Hiện nay chỉ còn một dãy gò không thả bò ăn.
Gò nằm bên nam ngạn sông Côn. Bên
gò có bến nước gọi là bến Cây Sung. Từ xưa đến nay thuyền câu luôn luôn đậu nơi
bến, lúc giặc giã cũng như lúc bình thường. Do đó mọc lên một khóm hoa khép nép trong đám bìm lau, người đời qua lại
ít ai để ý:
Xưa dãy gò không, nay đất không…
Thuyền câu chẳng đổi bến Cây Sung.
Buông tơ sớm tỏ lòng dâu bể,
Lặng lẽ nằm nghe sáo mục đồng.
Trên gò thấy lác đác đôi khóm
hoa. Nhưng gò có nhiều gai gốc nên lão không vào, chỉ đứng ngoài vói hái vài
cành:
Ráng mây thấp thoáng hồn Vương Thạch.
Hoa cỏ xuê xoang giống Lạc Hồng. (1)
Rồi lão theo bờ sông Côn đi lần
xuống để tìm thêm một ít ngâu núi sim rừng. Chợt lão nghe tiếng cười khúc
khích. Ngước lên nhìn thì lờ mờ thấy một người đàn bà ẵm đứa con. Thấy một ông
già lụ khụ dậm sỏi vẹt gai để tìm hoa, người đàn bà chế nhạo:
Thương ông đầu bạc đa tình
Dày sương dậm sỏi băng mình tìm hoa.
Không chịu nổi với lời mai mỉa, lão liền đáp:
Hoa ơi, tóc bạc lòng son,
Hương chưa nhạt gió lão còn yêu hoa.
Người đàn bà phá lên cười. Lão
xích lại gần, nheo mắt nhìn kỹ thì té ra là chỗ quen biết! Đó là TUYẾT NGA,
người đã đến viếng vườn hoa thơ Lành Mạnh và thường gởi hoa đến tặng vườn. Lão mừng rỡ hỏi: - Từ đâu đến?
Rằng:
Từ nơi núi
mọc bên sông,
Hoa chen luỹ
cỏ mây lồng tháp cao.
Hỏi: - Đến làm chi?
Rằng:
-
Thương lòng bền bỉ
sương sao
Vườn lòng bẻ nhánh hương trao tặng lòng.
Lão trân trọng nhận lấy hoa, một bó hoa mới hái, cánh
hương chưa ráo giọt sương mai:
LÒNG KHUYA VẮNG
Tiếng đồng
tan vỡ ngập âm ba
Phòng vắng
xanh, xao ngọn nến tà.
Xuân mộng trở
trăn thành cựu mộng;
Phồn hoa run
rủi luỵ tài hoa.
Sầu tuôn mắt
mẹ dòng thơ mật,
Tình đọng môi
con giọt huyết ngà.
Trà ướp hương
xưa duyên đã nguội,
Còn chăng?
Đắng đót ngọt ngào pha….
Từ giã TUYẾT NGA, tấm lòng già cỗi khô khan bỗng sanh
bồi hồi áo não! Nhánh “Lòng khuya vắng” của Tuyết Nga xui lão nhớ đến cành “ DẠ
CỐ NHÂN” mà lão đã hái được mấy mươi năm về trước:
Đêm mấy lần
mưa gió mấy lần!
Hoa tuy còn
giữ nét thanh tân,
Am thầm nuốt
biết bao nhiêu lệ!
Muôn dặm dừng
cương, dạ cố nhân….
Rồi lão lại liên tưởng đến cành hoa của Uông phu nhân
đất Dương Châu bên Trung Quốc gởi tặng chồng đi viễn chinh:
Thủ chiết ba
chi thuý đại tần!
An cần dục ký
viễn chinh nhân.
Minh tri đáo
nhật ưng tiều tuỵ,
Tức thử ba
chi kiến thiếp thân.
Nhánh hoa nầy lão đem về ương nơi vườn nhà ở Bình Khê
, và đã trổ thành một đoá hoa Việt:
Nhành hoa tay
bẻ mày nhăn!
Sa trường thăm
thẳm ân cần gởi trao.
Tới nơi héo
nhuỵ phai đào…
Chàng ơi!
Thân thiếp khác nào thân hoa!
Đó là những
khóm viên hoa.
Lão nhận thấy những viên hoa của lão hái được toàn là
những đoá hoa lòng, nghĩa là thiên về tâm tình, còn những khóm dã hoa đều là
giống hoa cảm hứng thiên về lý trí.
Dã hoa là của chung
Viên hoa là của riêng.
Mà chung hay riêng cũng đều nhờ ơn đất nước mà có. Và
đây chỉ là những đoá hoa lão hái được ở những nơi gần. Còn nhiều lắm… Còn nhiều
nơi lắm hoa… Khắp các tỉnh, trong những nơi thôn dã trong những nơi sơn lâm,
hiện có nhiều vườn hoa trồng nhiều giống lạ giống quí, nhưng chủ nhân nhất
thiết không đem ra bán phố phường. Lão vái chín tầng trời, mười lớp đất cho lão
mạnh tay khoẻ chân để đi khắp nước, lục lạo tìm cho được những kỳ hoa dị thảo
ẩn bóng trong đồng rộng núi cao, đem về hiến cho các bạn yêu hoa thân mến.
______________________________________
(1)
Thơ của Hương Sơn
Nguyễn Đình Mẫn.
15.
Trần Thúc Lâm và Nguyễn Hoài Văn là hai nhà cựu học,
tuổi hơn “nửa thế kỷ” rồi mà chưa chịu đi tìm thọ viên, cứ lẩn quẩn bên thi
uyển. Một hôm lão “Quở”. Hai ông bạn cười:
Mình chẳng
còn răng mà tưởng trẻ
Người chưa
bạc tóc lại chê già.
Lão đáp ngay:
Bạn già chẳng
biết lòng ta trẻ.
Không đợi lão ngỏ hiết ý, họ Trần ngắt lời:
Bầy trẻ
thường chê tánh bác già.
Lão không nhịn thua:
Tánh già già
khác người ta
Hoa thơm cách
mấy ngàn xa vẫn tìm.
Họ Nguyễn cười:
-
Hoa thơm thì cách
mấy ngàn xa vẫn tìm, còn hoa không thơm mấy, người ta đem đến tặng có nhận
chăng?
Lão đáp:
Hoa chẳng
hương thời sắc
Hoa nào không
sắc hương
Đìu hiu lau
trỗ bạc
Dầm bút vị
văn chương.
Họ Trần hỏi:
-
Hoa lau trổ văn
chương, xuất xứ ở đâu thế?
-
Nam có bắc có.
Các bác không nhớ tích bà mẹ nhà đại văn hào Au Dương Tu dùng lau làm bút dạy
con học ư? Lý Bạch có bài thơ:
Au mẫu dương
niên thiện giáo nhi
Nhất tòng lưu
đắc tả thu ti
Giang dầu
phong thối sương đinh ốc
Mộng lý ba
khai tuyết mãn chi.
Nhạn quá bình
sa tương tác tự
Nguyệt minh
Hán thuỷ tự lâm trì
Tố hồi tiện
dục tài tân sĩnh
Trâm hướng
cao quan thị ngọc trì.
Nghĩa
là: Vịnh Cây bút bằng lau. Bà mẹ ông Au Dương Tu năm xưa khéo tay dạy con. Một
khóm để lại được, chép lòng nhớ thu. Đầu sông, gió lui thì sương đầy từng dãy.
Trong mộng hoa nở thì ánh tuyết tràn cả nhánh. Nhạn qua bãi cát phẳng cùng viết
thành chữ; trăng soi sáng dòng sông Ngân Hán tự
tìm đến ao. Nghĩ lại việc ngày xưa, bèn muốn trồng giống mới tốt, vì
chính nơi thềm ngọc, trâm dắt đầu hướng nhìn mũ cao.
Thế
là “bút lau” có sản xuất. Còn “dầm vị văn chương” thì như bài “lô bút”của Lý
Bạt. Văn Thiên Tường có câu nói đến lau:
Mãn địa lô ba
hoà ngã lão
Cự gia yến
tử vị thuỳ phi.
Nghĩa
là: Đầy đất hoa lau cùng già với ta, còn nơi nhà cũng đoàn én vì ai mà bay?
Trong
bài Chiêu Hồn của cụ Nguyễn Du có đoạn nói đến hoa lau:
Tiết tháng
bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may
lạnh buốt xương khơ
Não nùng thay
buổi chiều thu
Ngàn lau
nhuộm bạc lá ngô rụng vàng….
Trong
bài THU của Chế Lan Viên cũng có đoạn nói đến hoa lau:
Cũng mới độ
nào trong gió lộng
Nếu lau bừng
sáng núi lau xanh
Bướm vàng nhè
nhẹ bay ngang bóng
Những khóm
tre cao rũ trước thành.
Vân
vân…
Đó
hai bác thấy chưa: Tình hoa lau mà khách văn chương còn chẳng nỡ phụ huống hồ
các giống hoa khác, trừ hoa cốc. Nhưng hoa cốc, chưa thấy dáng đã nghe mùi rồi.
Các bác cũng như lão, cũng như tất cả những người yêu hoa, đều tránh xa thứ hoa
ấy. Vậy lão chắc chắn rằng những hoa hai bác đem đến tặng vườn, thế nào cũng
quí giá hơn hoa lau. Vậy xin đưa đây, đừng khách sáo.
Nhân
và xem qua mấy bó hoa thơ của hai ông bạn, lão rất mừng. Chẳng những mừng vườn
thơ có hoa chưng bày, mà còn mừng bước tiến vượt mức của hai bạn.
Nguyễn
Hoài Văn và Trần Thúc Lâm mấy mươi năm bị triêm nhiễm lối thơ cử nghiệp. Làm
thơ lo giữ gìn cách luật cho nghiêm túc, thành tứ thơ tình thơ bị gò bó, khô
khan. Lấy tình cố giao, lão thường đem lời người xưa ra khuyến cáo. Lão thường
nhắc câu của Tuỳ Viên:
Thi hữu cán vô ba thị khô mộc giã (1)
Thi hữu cách vô thú vị thổ ngưu giã (2)
Họ Nguyễn hỏi:
-
Thế nào gọi là
hoa có cọng không hoa, thế nào gọi là thơ có cách không thú?
-
Giảng rườm lời mà
khó nhận thức, nên xin đưa ví dụ ra cho tiện. Và xin lấy một bài của một quan
trạng đời Lê mà lão quên tên, bài thơ rất được truyền tụng và các nhà dạy thơ
trước đây thường đem làm mẫu. Đó là bài:
CÁI CẮNG ĐÁNH NHAU
Vừa mưa vừa
nắng bởi vì đâu ?
Cái cắng làm
sao lại đánh nhau?
Vác gậy bà
chằn phang dưới gối
Vơ dùi ông
hểnh choảng trên đầu.
Cha căng mất vía bon lên trước,
Chú kiết kinh hồn lẩn lại sau.
Cái cắng từ rày còn thế nữa
Thì ra đi rủ cái bồ câu.
Nguyên tục ngữ có câu: “Vừa
mưa vừa nắng, cái cắng đánh nhau, bồ câu ra chữa, tí nữa thời tạnh”. Bài này
các ông dạy thơ Đường luật khen là hay về phép tắc (3). Bởi đúng phép làm thơ:
Đề trạng luận kết không có chỗ bắt bẻ được. Tám bệnh không mắc bệnh nào. Cũng
không phạm ngũ kỵ, không phạm tứ bất nhập cách (4). Cho nên khen là phải. Nhưng
chúng ta ngâm đi ngâm lại xem có thú vị chi chăng? Chúng ta ngắm đi ngắm lại
xem có đẹp đẽ chi chăng? Chắc hai bác cũng như tôi, không ai thấy đẹp mắt khoái
lòng. Không thích mắt thoả lòng, đó là hữu cán vô ba, hữu cách vô thú.
Nói cho rõ thêm: Thơ hữu cán vô
ba là thơ không có sắc, trông như một cây khô. Không bông không lá.
Thơ hữu cách vô thú là thơ không
vị, chẳng khác một con trâu đất không hồn.
Họ Trần tiếp: - Tức là thơ không hồn.
Rồi lại hỏi: - Anh thường bảo thơ phải gồm đủ THANH,
SẮC, VỊ, mới là thơ hay. Nhưng đó chỉ mới nói đến sắc và vị. Vậy nếu thơ thiếu
THANH thì gọi như thế nào?
-
Lão chỉ đưa hai
khuyết điểm mà quí bác thường mắc phải đó thôi. Chớ thật ra còn nhiều như “hữu
nhân vô ngã”, “ hữu trực vô khúc”, “hữu thanh vô tận” v.v… Điểm bác hỏi đó là “hữu
thanh vô vận”.
Hữu thanh vô
vận thị ngoã phẩu giã (5).
Bài thơ “Cái cắng đánh nhau” đọc nghe chẳng êm tai tí
nào cả. Đó là tiếng của một chiếc phẩu đất vậy.
Đem một bài thơ thiếu cả thanh sắc vị để làm mẫu cho
kẻ học làm thơ thì bảo thơ hay thế nào được? Nhưng thơ làm đúng cách thức như
thế, vào trường dễ đậu, xướng hoạ để đua tài lẫn nhau, không ai bắt bẻ được,
nên những sỹ tử ít tài, những thi công
háo thắng, rất ưa làm. Chúng ta làm thơ là để ký thác tâm sự, để giải phóng tâm
hồn, thì không nên theo lối thơ cử nghiệp.
Một ông khách bành thính nói:
-
Làm thơ thất ngôn
bát cú đã bị niêm luật ràng buộc, lại còn bị bệnh nầy bệnh kia nữa. Chi bằng
làm thơ lục bát khỏi niêm khỏi luật, khỏi bệnh khỏi hoạn chi cả, chẳng khoẻ hơn
sao?
Lão đáp:
-
Đã thích thì dù
khó đến đâu cũng cố gắng. Còn nếu không thích thì dù dễ đến đâu cũng không
dùng. Nhưng bảo thể lục bát không niêm không luật thì không đúng. Trong các
sách dạy thơ như sách của Lam Giang, của Dương Quảng Hàm, v.v… đã nói rõ. Còn
đã gọi rằng bệnh, thì thơ nào tránh khỏi nếu kẻ làm thơ kém kỹ thuật kém tài
năng. (6)
Quí bạn thử đọc những câu này xem sao:
Trèo lên cây
bưởi hái bòng
Hái chẳng
được bòng khóc ròng nãy giờ
Biết ai mà
phỉnh mà phờ
Đút tay vô lờ
mới lỡ một lần
Ơ sao phải
phải phân phân
Củ chóc củ
nần không bằng củ từ…
Những câu ấy nghe đâu có êm tai bằng những câu:
-
Một mai ai chớ bỏ
ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim
-
Chim chuyền bụi
ớt líu lo
Lòng thương quân tử ốm o gầy mòn.
-
Nhà em có bụi mái
mưng
Có con chó dữ anh đừng vô
ra…
Vì sao vậy? Chỉ vì một bên không
theo đúng qui củ của thể lục bát còn một bên thì tuân thủ triệt để.
Ở trên đời này có thứ ngôn ngữ
nào không có nguyên tắc? Có thể thơ nào không có nguyên tắc? Đâu phải chỉ có thơ Đường luật mới có nguyên
tắc. Thơ Mới, thơ Tự Do… vẫn có nguyên tắc của Thơ Mới thơ Tự Do… Cũng như nước
nào có luật lệ của nước ấy. Chỉ khác nhau ở điểm rộng hay hẹp, tồn cổ hay duy
tân.. đó thôi.
Luật thơ Đường mới ban đầu cũng
rộng rãi lắm. Nhưng càng ngày càng thêm chi tiết mới trở thành khó khăn cho
người mới học làm thơ. Thể nầy chỉ thích hợp với những tâm hồn đã được tiết
chế, những tâm hồn bình tĩnh, những tâm hồn vô ngại… chớ không thích hợp với
tâm hồn người đời nay. Vì vậy nên không cần mạt sát đả đảo, thể Đường luật cũng
phải chết theo những nhà thơ cữ, không kíp thì chầy.
Lão công nhận rằng thể Lục bát ít
bó buộc hơn thể Đường luật nhiều. Nhưng lão nhận thấy: thơ Đường Luật khó làm
nhưng dễ hay, thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Do đó từ xưa đến nay chỉ có một
quyển Đoạn Trường Tân Thanh.
Trần Thúc Lâm và Nguyễn Hoài Văn
nghe lão nói nhìn nhau. Lão hiểu ý,
khuyên:
-
Hai ông bạn thử
đổi thể thơ.
-
Xin lĩnh ý.
Trà ấy gắng công Lão mừng: Thơ Lục Bát của hai ông bạn
khác hẳn thơ Đường luật mà lão được xem
bấy lâu. Không còn khô khan gò gẫm như
trước. Trong thơ có chất thơ ngoài thơ có tiếng nhạc. Đây thơ của họ
Trần:
TẤC LÒNG QUÁN TRỌ
Bao phen là
nhuộm vàng thu
Lênh đênh
thương gót lãng du chưa về
Bồi hồi
ngoảnh lại trời quê
Núi sông ngăn
cách tư bề nước mây.
Non Nam cách
nhạn lạc bầy
Cỏ hoa đất
Bắc độ nầy tuyết sương
Riêng phần
sông vệ núi Dương
Gió mưa xoáy
cuộc tang thương đã nhiều
Còn chăng trẻ
trĩu nhánh điều
Ruông mai
vàng lúa bãi chiều xanh dâu
Và người năm
ấy giờ đâu
Trên sông
hoài vọng đứt cầu âm hao
Lạnh lùng
bóng nguyệt mài dao
Quốc cừu biết
có lúc nào trả xong
Ngập ngừng
chiếc én sang song
Ngóng xuân
luống những phập phồng tin xuân.
Và đây là thơ của họ Nguyễn:
MỘT NHOÁNG SE MÀU
Cuộc đời thay
biển đổi dâu
Thương vườn
xưa cũng hoan màu phong sương
Cỏ gai rấp
nghẽn lối đường
Bìm leo nách
dạu bốn tường trơ vơ
Hoa buồn bướm
lại thờ ơ
Liễu gầy oanh
luống ngẩn ngơ giọng chiều
Một mình đứng
giữa cô liêu
Hồn nghe vang
vọng sóng triều cõi sâu
Xuân xanh một
nhoáng se màu
Gió về run
rẩy mấy tàu chuối khô…
Chưa phải là khúc Dương A dới lộ, nhưng không đến nỗi
bị liệt vào hàng khối lỗi lậu chi (7). Và những câu như:
-
Riêng phần sông Vệ núi Dương
Gió mưa xoáy cuộc tang thương đã nhiều
Khối lỗi là con nộm nang Lậu chi là chén thủng. Chữ
mượn trong câu: Hữu nhơn vô ngã thị khối
lỗi giã; hữu trực vô khúc thị lậu chi giã.
Và câu:
Một mình đứng giữa cô liêu
Hồn nghe vang vọng sóng triều cõi sâu
Xuân xanh một nhoáng se màu
Gió về run rẩy mấy tàu chuối khô.
Thì có thể khen hay mà không chút ngượng ngại. Câu của
họ Trần tuy dùng chữ TANG THƯƠNG là chữ cũ mà nhờ có chữ XOÁY thành ra câu văn
trở nên mới mẻ. Cổ nhân gọi là “Xuất tân
ý, khử trần ngôn”. (8) Còn mấy câu của họ Nguyễn thì tứ mới lời mới, thoát
hẳn ảnh hưởng của thơ cử tử ngày xưa.
NGUYỄN ĐÔN PHỤC có câu:
Đất đã đắp
đắp cho nên núi, chín chày phải gắng công lao;
Đường dù đi
đi dốc đến nơi, nghìn dặm chi mài khó nhọc.
Lão xin mượn để tặng hai ông bạn họ Nguyễn họ Trần.
Bỏ là bỏ cách dùng. Chữ không có mới cũ. Mới cũ là do cách
dùng. Cho nên mới nói là “trần ngôn”. Tức là bỏ cách nói đã mục nát thành bụi.
________________________________________________________________
(1)
Có cọng mà không có hoa đó là cây khô.
(2)
Có cách không có thú đó là con trâu đất.
(3)
Trong báo Hữu Thanh số 10 năm thứ tư nơi mục “cái bàn
cách làm thơ” ông Đào Nguyên Thiện cũng đưa bài “Cái cắng đánh nhau” ra làm
mẫu.
(4)
Trong quyển Thi Pháp Nhập Môn có nói rõ, người làm thơ
Đường Luật ai cũng biết, nên miễn bàn thêm.
(5) Có tiếng mà không có âm vận thì là phẩu đất. Chữ THANH đây là tiếng. Còn chữ THANH của bạn Thú Lâm hỏi đó là thanh điệu, là âm vận. Câu “Hữu thanh vô tận” nghĩa là có lời mà không có nhạc, đọc nghe không êm tai.
(6) Qui tắc về thể lục bát các sách đã nói nhiều rồi nên không cần phải nói thêm.(7) Dương A Dới Lộ (ánh mặt trời chiếu vào giọt sương móc) là một khúc ca nổi danh, giá trị kém hơn Dương Xuân Bạch Tuyết một bậc.
(8) Xuất ý mới, bỏ lời trần hủ.
(5) Có tiếng mà không có âm vận thì là phẩu đất. Chữ THANH đây là tiếng. Còn chữ THANH của bạn Thú Lâm hỏi đó là thanh điệu, là âm vận. Câu “Hữu thanh vô tận” nghĩa là có lời mà không có nhạc, đọc nghe không êm tai.
(6) Qui tắc về thể lục bát các sách đã nói nhiều rồi nên không cần phải nói thêm.(7) Dương A Dới Lộ (ánh mặt trời chiếu vào giọt sương móc) là một khúc ca nổi danh, giá trị kém hơn Dương Xuân Bạch Tuyết một bậc.
(8) Xuất ý mới, bỏ lời trần hủ.