- Tâm Nhiên
Thơ và thiền là đôi
cánh đại bàng tung bay trên bầu trời Đông phương và Tây phương suốt từ nghìn
xưa cho đến ngày nay. Từ đỉnh ngàn cao tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn, thiền nghiêng
cánh xuống bay lượn khắp các tòng lâm, thiền viện, am cốc và thơ cũng tung lướt
một cách ngoạn mục từ bến sông Hằng, nơi Đức Phật đã khơi nguồn cảm hứng Chân
Thiện Mỹ.
Thi sĩ và thiền sư
cùng gặp nhau giữa con đường phong quang sáng tạo, thể hiện qua đạo và thơ,
nhưng thi sĩ là ai, thiền sư là kẻ nào vậy ? Phải chăng đó là những tâm hồn đốn
ngộ lẽ đời sinh tử, đọa đày, thống khổ, điêu linh, đã vượt qua chính mình để cất
lên tiếng hát bất sinh bất diệt, thiên thu vĩnh cửu như Chứng Đạo Ca của thiền
sư Huyền Giác và Truyện Kiều của thi sĩ Nguyễn Du ? Truyện Kiều không ai mà
không biết, không ai mà không thuộc lòng một vài câu, một vài đoạn trong toàn bộ
tập trường ca, dài hơn ba nghìn câu thơ lục bát của bậc đại thi hào dân tộc.
Bồng bềnh giữa biển
đời chập chùng ba đào bão táp, trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử,
Nguyễn Du (1766 - 1820) đã phiêu bạt giang hồ suốt 10 năm long đong ròng rã,
từng ngao du sơn cùng thủy tận khắp 99 ngọn núi cao Hồng Lĩnh, đầy mây trắng
sương mù ở quê nhà và đã chứng kiến biết bao nỗi đời tang thương thảm thiết, biết
bao vô thường, khổ lụy của bi đát sinh linh, quằn quại trong biển khổ trần ai.
Trải qua quá trình
lịch nghiệm, chiêm nghiệm tự thân rồi thấu triệt, thông suốt và lãnh hội vô tự
Chân kinh ngay giữa lòng mình, nên Nguyễn Du đã sáng tác tựu thành Đoạn Trường
Tân Thanh một cách diễm lệ, diệu thường như thế. Thi phẩm độc đáo, vô tiền
khoáng hậu này là tiếng lòng của Nguyễn Du vẫn còn ngân nga, đồng vọng giữa vạn
đại miên trường. Một tiếng lòng yêu thương cõi người ta vô biên vô lượng,
thương cho nỗi đoạn trường dâu bể xót xa:
Trăm năm trong cõi
người ta
Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể
dâu
Những điều trông thấy
mà đau đớn lòng.
Lòng thi nhân chìm
sâu đau đớn, rợn ngần trong hố thẳm tâm can vẫn rung ngân tận cõi nào vô vi, rực
ngời ngọn lửa tâm thức, đốt cháy tập khí lâu đời và cặn bã của ngôn ngữ loài
người để mở rộng, khai thông những tinh lực dữ dội, đọng lại trong âm thanh vũ
trụ càn khôn lồng lộng. Tiếng lòng ấy đã ứng vào cõi hồn thục nữ thùy mị Thúy
Kiều giữa một chiều du xuân xuất thần kỳ lạ, gặp nấm mộ Đạm Tiên trong một niềm
cảm xúc, rung động sâu xa:
Đã lòng hiển hiện
cho xem
Tạ lòng nàng lại nối
thêm vài lời
Lòng thơ lai láng bồi
hồi
Gốc cây lại vạch một
bài cổ thi.
Bồi hồi lai láng tận
đáy hồn vốn đã cưu mang, dung chứa sẵn rồi bao nỗi niềm tha thiết bao dung. Não
nùng biết mấy, chạnh lòng xót xa cho hồng nhan bạc mệnh, cho thân phận kiếp người,
cho nỗi đời máu lệ thê lương mà Thúy Kiều ( hay Nguyễn Du ) dạt dào vô lường
thương cảm trong da diết âm thầm :
Lòng đâu sẵn mối
thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã
đầm đầm châu sa :
“Đau đớn thay ! Phận
đàn bà
Lời rằng bạc mệnh
cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy
hóa công
Ngày xanh mòn mỏi
má hồng phôi pha”.
Lạ lùng sao, những
giọt lệ rưng rưng, nghẹn ngào cứ mãi long lanh, thánh thót rơi xuống ướt đẫm
tâm hồn đa cảm trầm tư. Từ đó, nghe ra xiết bao tiếng lòng Thúy Kiều dịu dàng,
chơn chất mà vô cùng rung ngân, rạt rào vô tận trên cung bậc tình yêu thâm thiết
ngay buổi đầu sơ ngộ với chàng hào hoa, phong nhã Kim Trọng, trong một niềm chi
đồng thanh tương ứng trọn vẹn, tràn đầy, gây nên một nguồn giao cảm thâm sâu,
tâm đầu ý hợp quá đỗi mặn nồng. Rồi run run chàng trao tay tặng vật mảnh khăn hồng,
rồi thề non hẹn biển, ngàn đời vĩnh viễn thiên thu:
Lặng nghe lời nói
như ru
Chiều xuân dễ khiến
nét thu ngại ngùng
Rằng : “Trong buổi
mới lạ lùng
Nể lòng có lẽ cầm
lòng cho đang
Đã lòng quân tử đa
mang
Một lời vàng tạc đá
vàng thủy chung”
Được lời như cởi tấm
lòng
Giở kim thoa với
khăn hồng trao tay
Rằng : “Trăm năm
cũng từ đây
Của tin gọi một
chút này làm ghi”.
Thúy Kiều, gái thuyền
quyên gặp Kim Trọng, trai anh hùng, quân tử như một nếp duyên tiền kiếp gặp lại,
cho nên ngay lập tức, họ liền trở thành đôi bạn chân tình, gắn bó tri âm tri kỷ,
khắng khít sâu dày. Tình yêu muôn thuở là vậy, những kẻ yêu nhau luôn luôn muốn
tiếp xúc cận kề, tìm cách gần gũi bên nhau để tha hồ hàn huyên tâm sự suốt đêm
ngày:
Thời trân thức thức
sẵn bày
Gót chân thoăn thoắt
dạo ngay mé tường
Cách hoa sẽ dặng tiếng
vàng
Dưới hoa đã thấy có
chàng đứng trông:
“Trách lòng hờ hững
với lòng
Lửa hương chốc để lạnh
lùng bấy lâu
Những là đắp nhớ đổi
sầu
Tuyết sương nhuốm nửa
mái đầu hoa râm”
Nàng rằng : “Gió bắt
mưa cầm
Đã cam tệ với tri
âm bấy chầy
Vắng nhà được buổi
hôm nay
Lấy lòng gọi chút
sang đây tạ lòng”.
Thúy Kiều lấy tấm
lòng trong veo, thuần hạnh, thanh khiết của mình để cảm tạ, đáp tạ tấm lòng
quân tử Kim Trọng rất mực tương kính lễ nghi, trân trọng theo thể lệ thời xưa.
Thật là cảm động, làm sao không xao xuyến, bồi hồi, khi hai tiếng lòng thiêng
liêng huyền mộng cùng hòa âm thấm thía, chia sẻ từng đường tơ kẽ tóc dưới ánh
trăng ngạt ngào hương hoa bừng rộ vô ngần:
Vầng trăng vằng vặc
giữa trời
Đinh ninh hai miệng
một lời song song
Tóc tơ căn dặn tấc
lòng
Trăm năm tạc một chữ
đồng đến xương.
Nói thì dốc hết ruột
rà ra nói thế, nghìn năm khắc cốt ghi tâm cùng một lòng một dạ thủy chung,
không có gì có thể chia cắt được, nhưng rồi : “Ngày vui ngắn chẳng đầy gang.
Chưa vui sum họp đã ngàn chia phôi”. Ơi chao ! Vô thường chợt đổ trút xuống bất
thình lình những tai ương, thảm họa hoành sinh. Nỗi đời tàn bạo, khắc khe chi hỡi
trời xanh tàn nhẫn, bất công đã xô đẩy Thúy Kiều rơi vào cảnh bị đọa đày suốt
mười lăm năm trời luân lạc đoạn trường, rời rã tha phương, làm kiếp hoa trôi
bèo dạt, lạc loài lênh đênh giữa dòng đời bão loạn, não nề, lê thê lệ thấm đẫm
u sầu:
Đau lòng kẻ ở người
đi
Lệ rơi thấm đá tơ
chia rũ tằm
Trời hôm mây kéo tối
sầm
Dàu dàu ngọn cỏ đầm
đầm cành sương
Lối mòn cỏ lợt màu
sương
Lòng quê đi một bước
đường ruột đau.
Đau lòng đứt ruột,
buồn thảm rờn rợn trong đêm dài sinh tử mịt mù u tối, thổi về từng cơn gió lạnh
buốt căm căm:
Ngập ngừng thẹn lục
e hồng
Nghĩ lòng lại xót
xa lòng đòi phen
Vì ai ngăn đón gió
đông
Thiệt lòng khi ở
đau lòng khi đi.
Đi về đâu hỡi nhật
nguyệt thiên địa mang mang? Chỉ còn vẳng nghe vang vọng rã rời những tiếng lòng
tan nát qua cung đàn chết lặng, tê điếng khúc ly tan:
Bốn dây như khóc
như than
Khiến người trên tiệc
cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng
tơ đồng
Người ngoài cười nụ
người trong khóc thầm.
Đó là tiếng lòng trầm
thống khổ lụy, bi ai của nhân gian ngàn thu sầu thảm u hoài. Phải chăng, đó
cũng là tâm lượng thương yêu dồi dào vô hạn mà thi hào Nguyễn Du muốn nhắc nhở
chúng ta, hãy chiêm nghiệm, quán chiếu, trầm tư về khổ đế, để rồi trao tặng gởi
gắm tấm chân tình linh diệu cho hậu thế phải không?:
Lỡ làng gạn đục
khơi trong
Trăm năm để một tấm
lòng từ đây.
Tấm lòng thi nhân gởi
lại cho trần gian cát bụi, dường như muốn nhắn nhủ điều chi hay trao một thông
điệp tối thượng mà đơn sơ giản dị khôn dè:
Tẻ vui bởi tại lòng
này
Hay là khổ tận đến
ngày cam lai?
Ồ ! Thì ra, chung
quy hết thảy mọi sự trên cõi đời này xảy ra cũng đều do tự nơi lòng mình, từ
tâm mình đấy thôi, như Đức Phật đã nói: “Tất cả do tâm tạo.” Đúng vậy, tất cả
muôn loài, vạn vật đất trời, vũ trụ càn khôn... đến những buồn vui, sướng khổ,
được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái... của con người sống trên quả địa cầu
tròn, đang quay lông lốc giữa hư không cũng đều khởi sinh từ cõi tâm, cõi lòng
sâu kín trong ruột rà của chính mình như lời sư cô Tam Hợp mở phơi:
Sư rằng: “Phúc họa
đạo trời
Cỗi nguồn cũng ở
lòng người mà ra
Có trời mà cũng tại
ta
Tu là cội phúc tình
là dây oan
Thúy Kiều sắc sảo
khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng
nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ
tình
Khư khư mình buộc lấy
mình vào trong
Vậy nên những chốn
thong dong
Ở không yên ổn ngồi
không vững vàng”.
“Cỗi nguồn cũng ở
lòng người mà ra”. Đúng rồi, tất cả đạo lý, triết lý, thi ca, khoa học, âm nhạc,
hội họa… tất cả nền văn minh nhân loại từ ngàn xưa đến nay cũng đều phát xuất tự
lòng người, từ tâm tư, trí tuệ tỏa sáng chan hòa và nhà thơ nhấn mạnh, mạch nguồn
cuộc sống của chúng ta là tấm lòng thiên lương thiện đức, là cõi tâm như nhiên,
thanh tịnh trinh tuyền vốn hằng hữu, phong quang rạng rỡ tuyệt trần:
Đã mang lấy nghiệp
vào thân
Thì đừng trách lẫn
trời gần trời xa
Thiện căn ở tại
lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài.
Chữ tâm là chỉ cho
tâm người, lòng người. Lòng người tâm người quả thật là bất khả tư nghì. Muốn
nói về cái tâm, muốn hiểu cho đầy đủ ý nghĩa thì không khác gì mình phải đọc lại
toàn bộ thiên kinh vạn quyển Nguyên thủy và Đại thừa liễu nghĩa do Phật thuyết.
Ở đây chúng ta chỉ có thể lai rai hiểu sơ lược đại khái : Cái tâm là những ý
nghĩ, suy tư, tư tưởng, niệm tưởng, thường xuyên dấy khởi liên tục mãi hoài.
Cái tâm có tác dụng ý niệm hóa, cái tâm chứa đựng kiến thức, cái so sánh biện
biệt, lý trí phán xét, cái trực giác, nhận thức, sự tự lãnh hội, cái tri nhận về
bản thân, cái ý tưởng, vọng tưởng, suy tưởng, tưởng tượng, những cảm xúc, cảm
giác, tư duy, tinh thần, tâm hồn, tâm linh, tâm trạng, những thần thức, linh thức,
thông minh, thông tuệ… Nói chung là những gì mình có thể trầm tư, uyên tư, uyên
mặc, lặn sâu thấu suốt, thấu đạt, hiểu biết, ý thức, vô thức, tiềm thức…
Tất cả những điều vừa
kể trên đều thuộc về tâm, hiểu theo nghĩa tục đế thông thường. Còn hiểu theo
nghĩa chân đế thì tâm là Diệu Tâm, Chân Tâm, là Phật Tánh, Tánh Không, là Tánh
Giác, Bát Nhã, là Chân Như, Tự Tánh vô sanh bất diệt. Cho nên Thiền tông với chủ
trương “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” phủ nhận mọi sức mạnh tự nhiên
và siêu nhiên ở bên ngoài. Thiền quy định mọi khía cạnh, mọi giá trị cuộc đời về
cho sức mạnh của tự tâm như Tuệ Trung Thượng Sĩ tuyên bố về tâm tự tại vô quái
ngại:
Muốn cầu tâm
Chớ tìm ngoài
Bản thể như nhiên vốn
vắng lặng
Niết bàn sinh tử chẳng
buộc ràng
Phiền não bồ đề
không đối nghịch
Tâm tức Phật
Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời
khắp cổ kim
Xuân đến hoa xuân tự
nhiên nở
Thu về đâu khỏi nước
thu xanh.
Như vậy, tâm có thể
tạo ra Phật và chúng sinh, tâm tạo ra Niết bàn và sinh tử, thiên đường và địa
ngục, hạnh phúc và khổ đau... Tâm tạo ra muôn loài vạn vật, tâm sinh ra tất cả
vì tâm là chủ động của đời sống mỗi một người trong chúng ta vậy. Điều đó đã được
thể hiện vô cùng ngoạn mục qua Ma Ha Ca Diếp niêm hoa vi tiếu trên tuyệt đỉnh
Linh Sơn, Duy Ma Cật thõng tay vào chợ, Long Thọ tự do tự tại phá chấp triệt để,
Bồ Đề Đạt Ma im lặng sấm sét, Huệ Năng khai thị “bản lai vô nhất vật” Lâm Tế, Đức
Sơn, Không Lộ gầm hét nổ bùng xung thiên chí, Tuệ Trung Thượng Sĩ nghêu ngao
khúc Phóng Cuồng Ca hoan hỷ địa vui vầy, còn Nguyễn Du thì thấy:
Người hiểu tâm này,
người tự độ
Linh Sơn chính là
lòng ta đó.
Linh Sơn là tên một
ngọn núi cao tuyệt mù trên dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ ở Ấn Độ, nơi Đức Phật từng
thuyết pháp ngày xưa, cách đây gần ba nghìn năm. Nguyễn Du đã thấy rõ tận tường
đỉnh Linh Sơn đó ở ngay trong lòng mình. Thấy bằng tâm, trực tâm, liễu tâm để lắng
nghe lại tiếng lòng tha thiết miên man, vang dội giữa thiên địa tuần hoàn, khiến
chúng ta có nghe ra được tiếng gì vi diệu hay trông thấy được điều chi kỳ tuyệt
hiện hữu nhiệm mầu, ngay trong tâm hồn, trong tận đáy lòng sâu thẳm của chính
mình hay không ? Có bùng vỡ, trực ngộ ngay lập tức đương xứ tức chân ngay ở đây
và bây giờ, chớ không chờ đợi vô lượng kiếp sau xa xăm nào nữa:
Một nhà chung chạ sớm
trưa
Gió trăng mát mặt
muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát
mênh mông
Triều dâng hôm sớm
mây lồng trước sau
Nạn xưa trút sạch
làu làu
Duyên xưa chưa dễ
biết đâu chốn này.
Trong Văn Tế Thập
Loại Chúng Sinh, thi nhân cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lần chữ tâm, chữ lòng thuần
nhiên, thuần phác mà suốt thấu, sâu sắc đậm đà: “Lòng nào lòng chẳng thiết tha”.
Chỉ một câu thơ đơn giản thôi, Nguyễn Du cũng đủ thần lực gây chấn động, nhói
buốt khắp ruột rà xương xảu máu me của chúng ta. Quá cùng xúc cảm, bàng hoàng
trước cảnh phù sinh bèo bọt, có ai không muốn thoát khỏi bọt bèo phù du? Chỉ cần
tỉnh thức, trực thấy ngay nơi lòng trong xanh thanh tịnh của chính mình vốn là
Phật đấy thôi:
Kiếp phù sinh như
hình bào ảnh
Có câu rằng : Vạn cảnh
giai không
Ai ơi ! Lấy Phật
làm lòng
Tự nhiên siêu thoát
ở trong luân hồi.
Ơi chao! Thanh âm
trầm hùng, bùng vỡ từ lòng thi nhân vẫn còn rúng chuyển, rung động cực kỳ như
tuệ kiếm Kim Cang vung lên, chặt đứt hết mọi xích xiềng, phiền não, mê ám thảm
thương:
Mãn cảnh giai không
hà hữu tướng?
Thử tâm thường định
bất ly thiền.
(Khắp cõi là không
tánh thì đâu có tướng?
Tâm này thường định
chẳng lìa thiền).
Nguyễn Du đã viết
hai vần thơ xuất thần nhập diệu trên trong bài Đề Nhị Thanh Động ở Lạng Sơn, chứng
tỏ cái thấy của thi sĩ không khác gì của một thiền sư đã đốn ngộ đạo Thiền. Tiếng
lòng, cõi tâm hay lòng bồ đề, tâm đại bi vô lượng thương yêu hết tất cả thập loại
chúng sinh như trong bài Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu đã được thi nhân viết
từ khi còn rất trẻ, lúc tuổi thanh xuân:
Tiếp đãi mấy đêm một
mực
Lòng bồ đề hỷ xả từ
bi
Xôn xao một khắc
ngàn vàng
Đàn chẩn tế Ba la
Bát nhã.
Bát nhã Ba la là
trí tuệ siêu việt, là tâm quang minh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, là bản thể
Chân Như. Như thế, bằng trí tuệ siêu việt, bằng tâm đại bi, lòng bồ đề sâu rộng
bao la mà nhà thơ đã thể hiện thiết tha nhất quán, đối với bao nhiêu thống khổ
trầm kha của kiếp người qua các tác phẩm thi ca bất hủ. Chính “Lòng thơ lai
láng bồi hồi” ấy đã chảy rạt rào trong tư tưởng thượng thừa và cảm thức thấu thị
tử sinh của thi nhân. Từ đó, tuôn chảy trong veo, dào dạt vào tận đáy lòng
trong trẻo tinh khôi của chúng ta, của toàn thể dân tộc Việt, một dân tộc thi
sĩ nhất trên mặt đất trần gian này.