Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

“Ẩn số” Phan Phụng Thạch

  • Phạm Đình Quát
Thầy Phan Phụng Thạch
Niên khóa 1965 - 1966, lớp đệ Lục 3 học ở phòng đầu gần sân vận động, dãy nhà quay mặt ra đường Quang Trung (nối dài); thầy Phan Phụng Thạch dạy môn Toán làm giáo sư hướng dẫn. Năm học trước, giáo sư hướng dẫn là cô Hảo, dạy Văn - là một phụ nữ dịu dàng, gần gũi, không khí sinh hoạt, học hành trong lớp đầm ấm như một gia đình. Năm học mới bắt đầu hơn một tháng, cái lớp toàn nam sinh này đã trổ mòi quậy phá trong giờ học. Lớp học nằm xa khuất tầm mắt phòng giám thị, một đám con trai bước vào tuổi dậy thì - cái tuổi không muốn làm “con nít” nhưng cũng chưa đủ chững chạc để làm “người lớn”; nhưng nguyên nhân chính, có lẽ do thầy giáo hướng dẫn quá hiền lành, ít nói và hay vắng mặt, bỏ giờ lên lớp.
Cuối năm, tức là sắp hết đệ nhất lục cá nguyệt (bây giờ gọi là học kỳ 1), thầy Thạch nghỉ liên tục mấy tuần. Cả lớp nhốn nháo, lo mất bài. Bàn với vài bạn trong lớp, tôi viết lá đơn, thay mặt lớp đệ Lục 3 lên nộp thầy Giám học, xin thay giáo sư môn Toán. Mấy ngày sau, thầy Thạch đi dạy lại, học sinh mới biết thầy bị bệnh. Tuyệt nhiên, thầy không nhắc gì đến lá đơn của chúng tôi nên lúc ấy tôi nghĩ chắc là thầy không biết. Sau này, có lần thầy chủ động nhắc chuyện ấy và nói “Các em đã làm đúng”.
Một lần, lúc cả lớp đang làm bài tập, thầy ra đứng lặng im ở hành lang khá lâu, mắt dõi nhìn về hướng đông bắc, nơi đang có mấy chiếc phản lực đang nhào lộn, liên tục bắn phá mục tiêu không xa thị xã, tiếng nổ dội về xen tiếng gầm rú của động cơ. Làm bài xong, tôi ra hành lang, đứng bên thầy. Thầy nói: “Vùng đó là quê tôi, làng Đạo Đầu”. Nghe vậy, tôi quên mất mục đích ra thưa thầy, cả lớp đã làm xong bài tập. Và cũng từ lúc ấy, tôi bắt đầu chú ý về những điều riêng tư của thầy.
Trước đó, tôi không hề nghĩ thầy Thạch là người Quảng Trị ‘chính gốc’, bởi từ giọng nói đến từ và ngữ điệu của thầy ‘pha’ chút miền Bắc nên khi biết quê thầy ở Đạo Đầu tôi rất ngạc nhiên. Phong thái, dáng dấp của thầy cũng khác hẳn các đồng nghiệp người Quảng Trị và người Huế. Dù thầy là người có khuynh hướng sống hòa đồng, thân thiện với mọi người nhưng đối với tôi, thầy luôn “khác” mọi người, sự khác biệt đó là một bí ẩn, tạo nên hấp lực khiến tôi càng tò mò. Thầy ít nói, nói nhỏ nhẹ, âm điệu không bộc lộ tình cảm vui-buồn- mừng-giận... đôi mắt nấp sau đôi kính cận dày càng khiến người nói chuyện khó “bắt mạch” cảm xúc của thầy. Nụ cười trên môi thầy càng hiếm hoi; nhưng khi cười lại có chút gì đó như “bẽn lẽn”, những nụ cười rất hiền.
Sau năm đệ Lục, tôi không còn học thầy Thạch nữa nhưng lại có nhiều cơ hội gần gũi thầy nhiều hơn. Chính thầy là người đã “tập” cho tôi vào quán cà phê; thầy không hút thuốc nhưng bảo “Quát cứ hút thuốc nếu thích”. Có điều lạ là mãi sau này tôi mới biết tên thật của thầy là Phan Ngọc Thạch, còn hồi đó từ các thầy cô trong trường và cả chính thầy chỉ nhắc đến bút danh của thầy là Phan Phụng Thạch như tên gọi chính thức, dù chẳng bao giờ thầy đọc thơ mình cho học trò nghe trong giờ học... toán. Thật khó hình dung chàng thanh niên gầy gò, khô khan, sống lặng lẽ với đồng lương thầy giáo môn Toán ấy lại là một thi sĩ có cuộc sống nội tâm mạnh mẽ, một tâm hồn trong sáng, nhưng nhiều dằn vặt...
Thầy Phan Phụng Thạch và Phạm Đình Quát trong một
kỳ trại của đoàn Thanh niên HTT Quảng Trị (1969).
Hai thầy trò chúng tôi có nhiều kỷ niệm như một đôi bạn trong sinh hoạt và những chuyến công tác xã hội của tổ chức Hồng Thập Tự; trong đó, kỷ niệm nhớ đời với tôi là những ngày hai thầy trò cùng thực hiện tờ Đan Tay số 2 (đặc san của Phân bộ Hồng Thập Tự tỉnh Quảng Trị). Số Đan Tay đầu tiên, anh Phạm Văn Hạng đảm nhận phần trình bày, không biết lúc làm số 2, họa sĩ bận chuyện gì mà thầy Thạch kéo tôi vào. Thầy đánh máy stencil, tôi viết tựa bài và vẽ minh họa, trình bày các trang ruột đặc san. Một tuần lễ liền tôi đến nhà thầy, tối thức khuya làm việc, ban ngày đến trường, lúc rảnh hai thầy trò lại ra quán cà phê - thỉnh thoảng có thầy Dạ Thảo đi cùng.
Đó là thời gian giúp tôi hiểu nhiều về “nhà-thơ-dạy-toán” này qua những điều thầy bộc bạch. Lúc ấy, thầy Thạch là người duy nhất biết ý định rời trường, xa Quảng Trị của tôi vào cuối năm đó (1969) mà ngay cả với gia đình, tôi vẫn chưa hé một lời. Có lẽ những dự cảm bất an về thân phận của đứa học trò sắp phải xa gia đình đã khiến thầy - vốn ít nói, quen sống khép kín - bộc bạch những suy nghĩ về nhân sinh, thế thái và... tình yêu một cách nhẹ nhàng như muốn giúp tôi thêm chút hành trang vào đời. Thầy không nói về gia đình mình, không bàn về triết lý (lúc ấy, đọc và bàn về các tác phẩm của Phạm Công Thiện, Sigmund Freud, Albert Camus, J. Krishnamurti, Hermann Hesse... đang là chuyện ‘thời thượng’ trong giới học sinh, sinh viên miền Nam), nhưng những suy nghĩ về cuộc sống của thầy đã giúp ích tôi rất nhiều sau này. Và mãi gần đây, tôi ngạc nhiên khi biết là năm tôi xa Quảng Trị, thầy Thạch mới 27 tuổi và đau lòng hơn, 4 năm sau thầy ra đi khi mới 31 tuổi.
Sau này, mỗi lần ra Đà Nẵng tôi vẫn thường hỏi thăm về nơi an nghỉ của thầy nhưng không ai biết và tôi vẫn tưởng thầy còn ở đâu đó bên bờ biển gần Ngũ Hành Sơn. Nhưng cơ duyên rồi cũng đến. Một ngày đầu tháng 7-2014, tôi đã được đến bên mộ của thầy Thạch (ở xóm Bầu, làng Đạo Đầu, huyện Triệu Phong, Quảng Trị) trong một khu lăng mộ của họ tộc) và gọi thầm “Thầy ơi. Anh ơi!”. Xin dâng nén hương muộn màng, thành kính tưởng nhớ thầy giáo của đứa em, đứa học trò nay tóc đã bạc màu thời gian.
Khu lăng mộ gia tộc họ Phan trong nghĩa trang làng Đạo Đầu.
Trong ảnh là anh Phan Ngọc Bích, bào đệ thầy Thạch.
Đến khi tóc bạc trò mới gặp lại thầy sau 45 năm xa cách.