- Hoàng Đằng
Thấy ả, sợ hay thẹn
- chẳng ai biết được tâm trạng của chó. Con đực chạy, kéo con cái theo dùng dằng;
có lẽ đau, con cái vừa lết vừa gào “căng, căng”.
Một vài trẻ trong
xóm ùa ra vỗ tay, la hét. Hai đứa nghịch ngợm, tìm lấy cái sào, định thò vào giữa
đít đang đấu nhau của 2 con chó gánh lên; nhưng may, chúng đã tháo ra được, quặp
đuôi, chạy mỗi con mỗi đường, biến mất.
Ả đã trên 60 tuổi.
Mặt mũi còn hồng hào, da dẻ còn trắng trẻo. Mấy ông lão rảnh rỗi thường đến nhà
ả, hút điếu thuốc lẻ, uống chai bia, cốc rượu, xem như kiếm cơ hội để gần gũi ả.
Chiến tranh ác liệt
đã giết quá nhiều trai tráng cả ở miền Bắc lẫn ở miền Nam. Con gái trưởng thành
khó kiếm chồng, trong đó có ả.
Trong thời chiến
tranh, gái lớn lên phải hy sinh quyền riêng cho lợi chung. Đặc biệt ở miền Bắc,
họ bị ràng buộc bởi chính sách “ba khoan”: (1) Chưa yêu thì khoan yêu, (2) Lỡ
yêu rồi thì khoan cưới, (3) Lỡ cưới rồi thì khoan có con.
Xã hội quản lý con
người rất chi li, nghiêm khắc; phụ nữ không chồng mà chửa bị cho là “hủ hóa”, bị
phê bình kiểm điểm ở nhiều nơi, ở nhiều cấp ... trong nhiều cuộc họp: đoàn, đội,
hội, hợp tác xã ...
Sau năm 1975, tối tối,
dân thường xuyên tập trung học tập chủ trương, đường lối của chế độ mới.
Người người dự họp
đông đủ; thuở ban đầu, người ta vừa sợ vừa tò mò; sợ vì ngồi họp mà luôn có người
theo dõi xem mình có cử chỉ, thái độ như thế nào đối với chính quyền mới; tò mò
vì muốn biết cán bộ phổ biến những gì; nên không ai dám trễ họp và vắng họp.
Tan họp, ra về, những người có nhu cầu rủ
nhau tách lối, lợi dụng màn đêm tối để thỏa mãn chút dục vọng.
Lại thêm, chính quyền
phát động những chiến dịch làm thủy lợi, huy động dân cơm đùm gạo bới phục vụ
đào mương đắp đê từng thời gian dài. Ngày lao động trên công trường, đêm về
trong các lán trại, nam nữ nằm chung đụng nhau, gác chân qua về, có khi bắt
tréo chân vào nhau; những ai có tình ý còn rủ nhau ra những lùm cây, những bụi
bờ vắng vẻ tâm sự tỉ tê.
“Lửa gần rơm lâu
ngày cũng bén” và những đứa trẻ mà tông tích bố không rõ ràng ra đời.
Trong những năm mới
hòa bình, Nhà nước có chủ trương phụ nữ được quyền làm mẹ đơn thân nghĩa là cho
phép những phụ nữ nào không chồng được kiếm con.
Mà phải vậy thôi! Ở
nước ta, ai cũng cần có con; con xem như chỗ dựa lúc già yếu, ốm đau và chung sự.
Còn lâu nước ta mới có đủ nhà dưỡng lão nuôi những cụ ông, cụ bà cô đơn như ở
các nước hiện đại có hệ thống an sinh xã hội ổn định, vững vàng. Ngoài ra, những
phụ nữ đơn thân chả lẽ sống đến chết mà không biết chi “chuyện ấy” hay sao! Họ
cũng cần hưởng một chút “mùi đời” chứ!
Ả cũng như nhiều ả
khác trong làng, sắc diện trông cũng được, tính tình cũng hiền hậu, vui vẻ. Vượt
qua tuổi hai mươi, bắt đầu “hâm” đi “hâm” lại, may nhờ có nhiều cơ hội do tình
thế mang lại và dựa vào chính sách “thông thoáng” về gia đình của Nhà nước, ả
tìm cách “xin con” và có được một con trai.
Bây giờ, con khôn lớn,
đi làm. Tuổi già, một mình không thể theo nghề nông được, ả dọn bia, rượu và
nhu yếu phẩm linh tinh tại nhà, bán cho dân trong xóm.
Hôm ấy, đã 9 giờ
sáng rồi mà chưa thấy ai đến mua gì, ả đi lui đi tới, bắt mặt nhìn ra, như đang
chờ đợi ai; ả cầm chổi quét nhà, quét sân. Ả dọn vén luôn tay để tiêu phí thời
giờ và vốn là dân nông thôn, ả có tính thích làm việc. Nhà ả trông ngăn nắp, sạch
sẽ lắm lắm.
Ba cụ trong xóm bước
vô, ngồi vào bàn. Cụ trên 70, cụ xấp xỉ 70, cụ ít tuổi nhất cũng 65. Họ không
việc; mà người cao tuổi thời nay đa số đều không việc. Con, dâu đi làm, kiếm sống;
cháu nhỏ thì gởi nhà trẻ, mẫu giáo, cháu lớn thì đi trường; nhà cũng không cần
người giữ, người đi ra hết, chỉ cần bấm ổ khóa
lại là xong.
Khỏi trông cháu, khỏi
giữ nhà. Như xưa thì việc còn lại của các cụ là giúp phơi cất, chế biến nông sản;
khốn nỗi! nghề nông cũng không còn. Trên đà đô thị hóa, Nhà Nước đã thu hồi ruộng
đồng đưa vào quy hoạch thành khu dân cư, khu công nghiệp, khu vui chơi giải trí
...
Các cụ trước đây có
phục vụ cách mạng, giờ về hưu, còn tham gia công tác quản lý địa phương trong
Chi Bộ, trong Mặt Trận, trong Hội Người Cao Tuổi ..., nay họp chỗ này, mai họp
chỗ kia, vừa có thêm thu nhập vừa qua hết thì giờ.
Các cụ hưu trí khác
rảnh rỗi thì sáng chiều gặp nhau, ngồi uống trà, bàn chuyện thời sự: tình hình
Ukraina, chiến sự Trung Đông, công tác chuẩn bị Đại Hội Đảng 12 ... Nhờ thế,
ngày tháng trôi qua mà ít để ý.
Một số cụ - không
nhiều - có chút học vấn thì ngồi làm thơ, tham gia các Câu Lạc Bộ Thơ; làm xong
thơ, trong hội họp, trong tiệc tùng, đọc để khoe thi tài của mình. Tội nghiệp
do hơi yếu, giọng đọc đứt tiếng nhiều chỗ, chẳng ai thèm nghe, người ăn cứ ăn,
người uống cứ uống, người nói chuyện riêng cứ nói!
Mấy cụ có chút lộc
do con cháu ở xa về mừng thì tụ tập ở các sòng cờ quân, cờ tướng ...; mê mải
theo kiệu cờ, ngồi quên trưa quên tối; ở nhà, vợ con đến bữa phải chờ đợi, cằn
nhằn.
Các cụ còn lại thì
hết ngồi lại nằm, hết nằm thì đi lòng vòng quanh xóm. Học vấn không, thành tích
không, tiền bạc không, họ sống kiếp dư thừa mà không hay biết.
À thế đó! Cuộc sống
đô thị tạo ra cái tính đua đòi. Ngày xưa, để chống nhức mỏi, đi làm đồng về,
các cụ ghé nhà nấu rượu, uống một cốc nhỏ, gọi là “uống rượu trự” (trự là đồng
bạc lẻ), ghi sổ; đến vụ, có thể trả bằng lúa. Bây giờ, giới trẻ uống bia thì giới
già cũng uống bia. Các cụ không biết rằng giới trẻ làm ra tiền, nhiều khi không
cần “đổ mồ hôi sôi nước mắt” mà vẫn có tiền – tiền do mánh mung, tiền do gian lận,
tiền đút lót mà “người thấp cổ bé miệng” chuồi cho những người giữ chức quyền
khó dễ trong công việc ...
Để bà chủ quán yên
tâm cho ngồi, một cụ bày chuyện nói:
- Từ giờ đến chiều,
ai đoán đúng có mưa ở vùng mình hay không. Đúng, tui chịu một két; sai, người
đoán chịu một két.
- Nói vùng mình thì
rộng lớn quá. Phải nói rõ đi: Từ Thanh Hóa vô Thừa Thiên - Huế? Cả tỉnh mình?
Chỉ thành phố mình? Chỉ phường mình đây?
Để xác suất mình phải
chịu một két ít đi, cụ phát biểu đầu tiên nói rõ:
- Thôi chỉ tại ngã
tư, trước mặt quán - nơi chúng ta đang ngồi.
Cụ còn lại biết việc
bàn cãi chẳng đâu vào đâu, kết luận sự việc:
- Cần uống chừ mà hỏi:
đến chiều có mưa không. Uống xong, về,
ghi sổ nợ hay răng. Mà ghi sổ nợ, rồi biết lấy chi để trả; thóc trong bồ
không có, lấy chi xúc trộm đem lén bán. Mấy ôông nói chuyện viễn vong. Thôi tui
về, hai ôông muốn mần răng đó thì mần.
Một cụ bước ra, rồi
hai cụ còn lại bước ra theo. Một chầu bia hụt.
Sáng nay, bà chủ
quán mất “mè xưa”, bà chưởi lằm bằm: “Tổ cha hai con chó nhà ai mới sáng đã lẹo
chắc trước cổng nhà tao, hèn chi!”
Đông Hà - 28/8/2014