- Quách Tấn
Sông Cái (Nha Trang), đoạn qua xã Vĩnh Ngọc. Ảnh: Mai Lĩnh |
Nha Trang là
do tiếng Chàm Ya Tran mà ra. Ya là nước, là sông; Tran nghĩa là cây lau, cây
sậy. Ya Tran nghĩa là sông lau. Vì con sông Cái chạy từ Diên Khánh xuống đến
biển, mọc đầy lau lách ở hai bên bờ nên người Chàm gọi là Ya Tran. Sau khi đất
Chiêm Thành sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, thì người Việt phiên âm chữ Ya Tran
ra Nha Trang để gọi con sông Cái chạy từ Diên Khánh đến biển.
Như thế, Nha
Trang là tên sông.
Phần đất Khánh
Hòa ngày nay, khi còn thuộc về người Chiêm Thành tức người Chàm thì gọi là Cù
Huân (Kaut Hara). Đất Cù Huân sáp nhập vào lãnh thổ Việt nam khoảng đầu thế kỷ
thứ 18, thời Chúa Nguyễn, chúa Nguyễn đổi tên đất Cù Huân làm dinh Bình Khang,
sau đổi là Bình Hòa. Dinh Bình Hòa chia làm 2 phủ là phủ Ninh Hòa và phủ Diên
Khánh. Dinh quan Tổng trấn Bình Hòa đóng tại Ninh Hòa trên bờ sông (cho nên con
sông Ninh Hòa mang tên là sông Dinh). Hậu bán thế kỷ thứ 18 dinh Bình Hòa thuộc
về nhà Tây Sơn. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu vào làm Tổng trấn, nhận thấy
Ninh Hòa không có thế dụng binh, bèn dời dinh vào Diên Khánh. Để trấn giữ quân
Chúa Nguyễn ở phía Nam, Trần Quang Diệu bèn xây thành đắp lũy kiên cố nơi đóng
binh và gọi là Diên Khánh thành.
Cầu đường sắt nối hai bờ sông Cái. Đầu cầu bên trái là hầm xe lửa cuối cùng trên lộ trình đường sắt Bắc Nam. Ảnh: ML |
Đến triều Minh
Mạng (1820-1840) dinh Bình Hòa đổi thành tỉnh Khánh Hòa. Thành Nha Trang được
xây lại theo kiểu Vauban và bỏ tên Nha Trang lấy lại tên Diên Khánh: Diên Khánh
thành.
Sau khi thực
dân Pháp chiếm được toàn cõi Việt Nam nói chung, tỉnh Khánh Hòa nói riêng, thì
đặt cơ quan cai trị ở miền Duyên Hải và lấy hai chữ Nha Trang mà đặt tên cho
địa phận đóng cơ quan cai trị tức là thành phố Nha Trang hiện thời. Như thế là
thành phố Nha Trang đã lấy tên sông, nhưng không phải lấy trực tiếp mà lấy qua
thành Diên Khánh. Có người không đi sâu vào bối cảnh lịch sử, thấy sông Nha
Trang chảy qua thành phố Nha Trang thì bảo rằng sông mang tên thành phố.
* * *
Để chứng minh
cho những điều trình bày trên đây, tôi xin trích vài ba câu thơ cổ còn lưu
truyền.
Đại
Lãnh văn viên, cô nguyệt hạ
Nha Trang xạ hổ loạn vân gian.
Nghĩa là:
Lắng
vượn trăng mờ đêm Đại Lãnh
Bắn hùm mây loạn núi Nha Trang.
Nha Trang đây
là thành Nha Trang ở Diên Khánh chớ không phải là thành phố Nha Trang. Bởi vì
thành phố Nha Trang mới bắt đầu xây dựng sau ngày thực dân Pháp đặt nền đô hộ
trên toàn cõi Việt Nam dưới triều Đồng Khánh (1885-1888). Còn câu thơ này làm
vào khoảng cuối triều Tự Đức (1848-1883). Đó là câu thơ của Nguyễn Tư Giản làm
quan ở triều đình Huế tặng Nguyễn Thông làm Án sát tỉnh Khánh Hòa, dưới triều
Nguyễn vẫn gọi Khánh Hòa là Nha Trang thành:
Tứ biên hoàng diệp tổng vi thu.
Nghĩa là:
Trắng
ngập đôi bờ lau xuống biển
Vàng bay bốn mặt lá gieo thu.
Đó là câu thơ
của nhà chí sĩ Trần Quý Cáp đã làm năm 1905, lúc cùng hai bạn đồng chí là Huỳnh
Thúc Kháng và Phan Chu Trinh đi cổ động cho phong trào Đông du của chí sĩ Phan
Bội Châu ghé ngang qua Nha Trang. Trong câu thơ không có chữ Nha Trang nhưng
câu “Lưỡng ngạn lô hoa trường đáo hải cho chúng ta biết đó là sông Nha Trang .
Bởi “Lưỡng ngạn lô hoa” nghĩa là “hai bên bờ sông hoa lau”, mà “sông lau” tức
là sông Nha Trang. Câu đó cũng cho chúng ta thấy rằng mãi đến thời thực dân
phong kiến sông Nha Trang vẫn còn đầy lau lách ở hai bên bờ.
Như thế thì
hai chữ Nha Trang quả là tên con sông Cái đã có từ xưa. Rồi tên sông lấy đặt
tên cho thành, rồi tên thành lấy đặt tên cho thành phố, rồi thành phố và sông
đều mang chung một tên.
* * *
Con sông Nha
Trang đã đi vào lịch sử và đã vào văn chương, chẳng những văn chương chữ Hán mà
cả văn chương chữ Việt. Xin đơn cử một bài chữ Việt:
Cát
vàng sóng lục
Nhởn
nhơ con cá đục
Lội
dọc lội ngang...
Đã
nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Sao
anh nỡ ham tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Mà
phụ phàng nước non?!
Bớ
anh ơi,
Nét bia Hòn Chữ chưa mòn.
Lưỡi gươm rửa hận hãy còn mài trăng.
Q.T.