* Mai Lĩnh
Nói tới tục
tảo mộ, hay chạp mả, người ta thường liên tưởng đến câu
“Thanh minh trong tiết
tháng Ba,
lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”
trong truyện Thúy Kiều (Nguyễn Du).
Nhưng đó là chuyện kể theo phong tục và bối cảnh Trung Hoa ngày xưa.
Người Việt,
từ xưa đã có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, và thời tiết có những khác biệt
theo vùng miền nên ngày tảo mộ, chạp mả được tiến hành vào những thời điểm khác
nhau, nhất là vì cuộc sống thay đổi nhưng tựu trung vẫn nhằm hai mục đích chính
là thăm viếng, sửa sang nơi an nghỉ của tiền nhân (người đã khuất) để tỏ lòng
thành kính, tưởng nhớ gia tiên; thứ hai, đó cũng là dịp để người trong gia tộc
có dịp quần tụ trong điều kiện sống tản mác khắp nơi, quanh năm lo chuyện mưu
sinh.
Ngày xưa,
khi hầu hết người dân Việt sống quần tụ ở làng quê mình, phần lớn mồ mả thường
chôn cất rải rác trên các mảnh đất xen giữa ruộng đồng, trước tết Nguyên đán
hàng năm, nhà nhà thường phát quang và đắp lại các nấm mộ hoặc sơn phết lăng mộ
của người thân cho mới như việc sửa sang ngôi nhà của mình để chuẩn bị đón năm
mới. Việc này nhà nào tự lo nhà nấy, thường gọi là chạp mả. Sau tết lại có
ngày, nhiều gia đình trong cùng chi, phái hẹn nhau cùng tảo mộ ở các lăng mộ
ông bà chung.
Ngày nay,
do cuộc sống xã hội thay đổi, nhiều thế hệ đã phải rời xa làng mạc, quê hương;
người ta đã nghĩ đến việc quy tập mồ mả thành những nghĩa trang của đại gia
đình, chi phái trong họ mà con cháu hầu hết đều sinh sống phương xa. Những trường
hợp như vậy, không thể chạp mả riêng từng nhà vào dịp cuối năm âm lịch vì ai nấy
còn phải lo cuộc mưu sinh xa xứ và cũng không thể theo tục tảo mộ và thời tiết
“Thanh minh trong tiết tháng Ba...” như thuở trước, mà cùng hẹn nhau một ngày
nào đó thuận tiện cho mọi gia đình cùng có người đại diện về quê tảo mộ.
Xã hội thay
đổi là tất yếu và điều kiện xã hội khiến tập quán, phong tục xã hội theo đó
cũng thay đổi là điều hiển nhiên. Đầu tháng 7 năm 2014, trong chuyến đi Quảng
Trị, tôi có dịp theo bạn Bùi Phước Vĩnh về làng Đại An Khê (Hải Lăng) trong dịp
lễ tảo mộ. Nghĩa trang tộc họ này được xây dựng trên vùng rú cát (nay được trồng
cây bạch đàn và tràm bông vàng) thuộc địa phận làng Trà Lộc, Hải Lăng. Cũng xin
nói thêm là làng Đại An Khê ngày nay gồm ba làng trước đây sát nhập lại: Đại Nại,
An Thái và Ba Khê.
(hình ảnh
được chụp ngày 8-7-2014)