- Quách Tấn
Tập “Đôi nét
về tỉnh Khánh Hòa”
Mặc dù gồm đủ
các mục cần thiết: Lịch sử, Địa lý, Thắng cảnh, Cổ tích, Nhân vật..., Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa chưa có thể
gọi là một địa phương chí, vì quá sơ lược.
Đó là một bài
diễn văn, nói làm hai buổi, chỉ dày 30 trang giấy đánh máy hàng hẹp.
Nguyên năm
1962, trở lại ngành hành chánh và phục vụ tại tòa hành chánh tỉnh Khánh Hòa ở
Nha Trang, tôi phụ trách soạn thảo địa phương chí cho chánh quyền địa phương.
Vốn ở Khánh Hòa đã lâu năm, công việc ấy đối với tôi không lấy gì làm khó lắm.
Huống nữa địa phương chí viết theo kiểu hành chánh thì chẳng cần phải nhiều tài
liệu. Nhưng việc viết địa phương chí, tòa hành chánh Khánh Hòa đã giao cho một
nhân viên viết từ ngày người Pháp giao quyền lại cho người Việt, ngót bao nhiêu
năm qua mà chưa có được chữ nào, thì sao mình lại làm tài khéo tài khôn viết
vội.
Viết xong
trong một thời gian ngắn đã gây ác cảm với người “tiền nhiệm” lại làm cho bọn
có quyền tưởng lầm rằng “ai viết cũng được”. Thêm nữa sao lại không nhân dịp
tìm thêm một số tài liệu cho mình.
Tôi bèn đề
nghị ông Tỉnh trưởng cấp phương tiện để đến từng quận khảo cứu tường tận rồi sẽ
viết. Ông Tỉnh chấp thuận, nhưng hai ông phó cho là tốn công và mất thì giờ. Để
có tài liệu viết, họ bảo tôi đưa ra những gì cần biết, rồi sức cho các quận lo
tìm hiểu và phúc trình...
Tháng ngày
qua... và tôi đợi...
Thời bấy giờ
có phong trào học tập chánh trị. Mỗi tuần các công chức nghỉ việc trong 2 giờ
để học tập. Mỗi cơ quan cử ra một ban thuyết trình. Tôi bị dính vào ban thuyết
trình chung của thị xã Nha Trang. Nói mãi về chính trị ai nấy đều ngấy cả
người. Tôi đề nghị thỉnh thoảng đổi món. Toàn ban đồng ý và tôi phải thực hiện
trước tiên...
Sẵn có tài
liệu trong tay [1], tôi
bèn lấy tỉnh Khánh Hòa làm đề tài nói chuyện.
Tôi mất ngót
một tuần nhật để viết bài - viết trong những giờ rảnh ở sở.
Lập ý, cấu tứ,
bố cục xong, tôi ngồi vào bàn máy đánh chữ với bản đồ trước mặt, rồi... lốc cốc,
lốc cốc...
Lắm lúc nguồn
văn đang tuôn trào thì ông Tỉnh sai làm việc này, ông phó kêu hỏi việc nọ, hoặc
ông ty nhờ chút việc kia, làm tôi cụt hứng. Khi trở lại cùng văn chương, phải
vét phải bước giây lâu mới tìm được mạch trở lại... Những buổi vào làm việc
được vài ba giờ liên tiếp, không bị gián đoạn, thì thích thú vô ngần. Tiếng máy
đánh chữ của tôi làm át hẳn tiếng máy đánh chữ và tiếng nói chuyện ở chung
quanh. Tôi có cảm giác tôi là một nhạc sĩ ngồi đánh dương cầm (piano) và đến
khi tôi tự hỏi: “Tiếng máy chữ giúp cho nguồn văn mình chảy dễ dàng hay nguồn
văn mình làm tiếng máy chữ kêu êm ái”?
Ở nhà làm việc
hay lúc làm việc trong một phòng riêng ở Ty Kiến Thiết, tôi không có những cảm
giác ấy, ý nghĩ ấy. Tôi chắc ở đây, sức cố gắng đánh bật những tiếng ồn ào
chung quanh, đã gây ra để làm gia vị cho công việc sáng tác không nhằm nơi...
Các nhà tu
thiền ngồi nhập định ở giữa chợ chắc hưởng nhiều lạc thú hơn ngồi nơi thanh
vắng? Và có lẽ hứng vị của các nhà tu lúc ngồi thiền cũng như mình lúc sáng tác
mỗi khi mỗi khác, cho nên nhập định mãi, sáng tác mãi, mà không bao giờ chán, không
bao giờ nhàm...
Một đôi bạn
đồng sự thấy tôi làm việc chăm chỉ, đến ghẹo để mua vui. Nhiều khi rất bực.
Song xét kỹ bực bội không có lợi chi hết, tôi bèn “tương kế tựu kế” tìm ngay
chút ít vui trên thú vui nghịch ngợm của anh em...
Một hôm một
ông bạn đến đứng xem tôi làm việc thấy bên những cảnh núi sông tôi có điểm
xuyết một vài câu ca dao địa phương, hay một bài hát do tôi soạn nhưng giấu
tên, bèn nói:
- Các nhà thơ
đến đâu làm hoen ố phong cảnh đến đó. Hèn chi ca dao có câu:
“Hòn
đất mà biết nói năng
Thì mồm thi sĩ hàm răng không còn.”
Nghe nói,
ngước lên nhìn, tôi không ngăn nổi trận cười bột phát. Ông bạn ngạc nhiên hỏi:
- Anh cười gì,
mà coi bộ thích thú như thế?
- Tôi cười anh
là thi sĩ mà không tự biết.
- Câu ca kia
đâu phải của tôi.
- Tố giác anh
đâu phải câu ca, mà chính là hàm răng vàng anh vậy.
Lại một bận
khác, một ông bạn khác đến xem bài. Lúc ấy tôi vừa viết xong con sông Cù ở Nha
Trang và bước sang con sông Dinh ở Ninh Hòa. Tôi mới viết đến ba ngọn nguồn của
con sông và đương nghĩ một bài ca trang điểm cho phong cảnh nhưng chưa tìm ra
ý. Ông bạn xem bài ca về con sông Nha Trang:
Sông
Nha Trang, cát vàng nước lục
Thảnh
thơi con cá đục
Lội
dọc lội ngang...
Đã
nguyền cùng em giữ dạ đá vàng,
Quý
chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng,
Anh nỡ phụ phàng nước non.
hỏi tôi:
- Sông Nha
Trang có thơ, sông Ninh Hòa chắc cũng có chứ?
Ông bạn là
người quen biết cũ. Trước kia bị tình phụ thường dùng rượu để giải sầu. Nghe
ông bạn hỏi, tôi liền nảy tứ, đáp:
- Sông Dinh mà
không có thơ thì chợ Ninh Hòa hết người đến uống rượu. Xem đây...
Vừa dứt lời,
tôi đánh lốc cốc:
Sông
Dinh có ba ngọn nguồn
Anh
nhớ em băng đèo vượt suối,
Nhưng
không biết đường đến thăm em!
Ghé
vô chợ Ninh Hòa
Mua
một xâu nem
Một
chai rượu trắng,
Anh
uống cho say mèm để quên nỗi nhớ nhung...
Rượu
không say,
Nghĩ
lại ngại ngùng
Con
gái 12 bến nước,
Biết thủy chung bến nào?
Nhân câu
chuyện xưa của ông bạn, mà kéo được nem và rượu là món đặc biệt ở Ninh Hòa vào
để trang điểm cho sông Dinh, thì thật là thú vị!
Tôi nghĩ nếu
không có ai đến, hoặc có mà là một người khác chớ không phải ông bạn say rượu
vì tình kia, thì liệu có đem được nem được rượu vào làm gia vị cho cảnh sông
Dinh không? Chắc là không... Cho nên ngoài mình ra, ai hiểu vì sao lại có câu
“vui vui” như thế[2].
Thánh Thán
nói: “Khi ta viết văn có con ruồi đậu
trước ngòi bút. Khi người xem văn ta không thấy con ruồi đậu trước ngòi bút thì
làm sao hiểu được ta”[3] là
nói về những trường hợp như trên...
Những ý nghĩ
“lạc đề” thế ấy thường nảy ra trong khi viết lách. Thường thường, tôi phải
ngừng viết, để ghi chép kẻo quên, nếu thấy hay hay... Đó là vài hột đậu phộng
rang, vài cọng rau giá hay một hớp canh rau tập tàng... điểm vào bữa ăn thịnh
soạn..., chúng chỉ làm cho thêm thích khẩu khi trở lại dùng những món ăn chính.
Viết Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa tôi gặp được
một số đậu phộng rang và rau giá... mà hai chuyện trên là đại biểu xứng đáng...
Đến đoạn cuối,
để chấm dứt cho ý vị, tôi dùng đến những món ăn đặc biệt của Khánh Hòa xào nấu
thành ca dao:
Thơm
Vạn Giã ngọt đà quá ngọt [4]
Mía
Phú Ân cái đọt cũng ngon [5]
Hỡi
người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Ở Khánh Hòa có
mấy món ăn đã nhập làng tục ngữ là:
Yến
sào Hòn Nội, vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba, nai khô Diên Khánh
[6].
Nhân thời Pháp
thuộc lên Võ Cạnh chơi, được ăn một bữa cháo cá tràu ngon quá sức ngon. Từ ấy
tôi không còn thấy cá tràu nơi nào bì kịp. Lại sau khi hồi cư về Nha Trang, nhà
tôi mua được một mớ sò huyết mà người bán nói rằng ở Thủy Triều mới đem ra. Tôi
ăn rất khoái khẩu - nên tôi bèn nhập ngay hai món nầy vào bốn món kia, gia vị
thêm chút tình của mình thành một bài hát:
Yến
sào Hòn Nội,
Vịt
lội Ninh Hòa
Tôm
hùm Bình Ba
Nai
khô Diên Khánh
Cá
tràu Võ Cạnh
Sò
huyết Thủy Triều
Đời
anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm ngon chiều với em.
Đến ngày đem
ra trình làng, tôi nhờ một số văn nghệ sĩ Nha Trang phụ trợ việc ngâm hát những
thơ, ca theo nhịp đàn sáo như kỳ diễn thuyết về Hàn Mặc Tử tại Saigon.
Cuộc
nói chuyện tổ chức tại rạp chiếu bóng Tân Tân. Thính giả hầu hết là công chức
(giáo viên, thư ký, ty, sở, trưởng, chủ, sự...) và các nhân sĩ trong thị xã Nha
Trang. Cuộc nói chuyện được hoan nghênh nhiệt liệt.
Ông Hiệu
trưởng trường trung học Võ Tánh nói:
- Địa lý là
món khô khan dễ chán mà anh trình bày thế ấy, thì thật chẳng khác chiếu phim
phong cảnh. Rước anh dạy địa dư thì tuyệt.
Tôi cười:
- Đừng bày,
trước đây tôi đã bị phê bình rằng đem tánh chất lãng mạn trộn cả vào môn địa
lý, và bị đuổi ra khỏi trường rồi. Đâu dám “tái phạm”.
Buổi nói
chuyện được ghi âm và được phổ biến trên đài phát thanh làm vui cho đồng bào
địa phương không ít.
Ông bạn già
Trần Thúc Lâm ở xóm Máy Nước cạnh đài phát thanh Nha Trang, đến bảo:
- Hòn Trại
Thủy ở đâu? Tôi hỏi không ai biết hết. Họ nói ở trong thành phố Nha Trang chỉ
có núi Sinh Trung chớ không làm gì có núi Trại Thủy. Có người bảo rằng anh “đẻ”
ra, nên núi chỉ nằm trong tưởng tượng.
Tôi phá lên
cười:
- Vậy xóm Máy
Nước của anh cũng do tôi “đẻ” ra hay sao? Bởi hòn Trại Thủy nằm ngay trước mặt
nhà anh.
- Đó là hòn
núi Chùa chớ.
- Sẽ có người
cải đó là hòn Xưởng hoặc hòn Kho vì xưa kia có kho và xưởng ở núi.
- Sao lại
nhiều tên thế?
-
Thì cũng như người trợ bút cho Lành Mạnh, mỗi kỳ viết bốn năm bài mà phải lấy
bút hiệu nào Cổ Bàn Nhân, nào Thi Nại Thị, nào Cù Huân Khách, nào Định Phong...
- Thế thì cũng
có phần rắc rối.
- Tôi đã nói
rõ vì sao người ta lại gọi là Trại Thủy, là Hòn Kho, Hòn Xưởng, mà cũng đã nói
rõ nó nằm ở nơi nào. Tại người nghe không để ý nên sanh ra thắc mắc. Nhà văn
thường bị độc giả rầy oan là vậy đó...
Thượng tọa
Thích Trí Thủ nói cùng đệ tử là Trần Đình Lạc:
- Ăn nằm với
núi đã chín mười năm, mãi nay nhờ bác Quách mình mới biết tên là Trại Thủy!
Như vậy bài Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa cũng gây được
ít nhiều ảnh hưởng trong quần chúng.
Năm 1963, nhân
làm Tổng giám thị Trung tâm tu nghiệp cán bộ Khánh Hòa tôi cho in ronéo bài
diễn văn ấy phát cho anh em làm tài liệu tham khảo khi đi phục vụ nhân dân. Tôi
gởi cho các bạn quen xa gần để mua vui. Hiếu Chân lấy làm thích thú, đăng lời
cảm tạ và hẹn sẽ nói về công phu bài ấy, trong số Tự Do ra ngày 18-4-1963. Hiếu
Chân chưa kịp viết bài thì ông bạn Phan Ngọc Châu, giáo sư Việt Văn và sinh ngữ
ở Saigon gởi bài phê bình đến đăng ở số Tự Do ra ngày 21-7-1963, Phan quân tán
thưởng nhiều điểm.
Còn Nguyễn Ang
Ca thì lấy trọn bài đem vào thiên phóng sự Miền Trung đăng trong Tiếng Chuông,
tháng 4-1963. Họ Nguyễn chỉ mào đầu vài câu rằng ra Nha Trang gặp tôi và được
tôi tặng nhiều tài liệu về Khánh Hòa, rồi cắt từng khúc bài của tôi, đem y
nguyên văn vào bài của mình mà không để trong vòng kép(“...”) cho rõ rằng anh
ta trích của tôi. Tôi viết thư phản đối. Anh ta đăng bài công bố rằng phần
nhiều tài liệu trong bài phóng sự là của tôi, chớ không nói những đoạn nào là
của tôi (thỉnh thoảng có chen năm ba câu của anh ta vào bài của tôi...). Trong
khi tặng Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa tôi lại còn cho mượn một phiến ảnh chụp cảnh
hốt cốt Hàn Mặc Tử. Anh ta đem vào Saigon làm bản kẽm in vào đoạn nói về Quy
Nhơn song không cẩn thận làm mất phứt!! Tôi bảo rằng anh ta cố ý đoạt, anh ta
lấy danh dự thề rằng không có tà tâm. Tôi đành chịu thiệt!!!
Tôi không ngờ
một người có tên tuổi trong làng báo mà thiếu thận trọng đến thế. Tôi chợt nhớ
đến lời nói của Tân Việt năm 1958 khi mới gặp: “Anh nên cẩn thận, chớ nên đưa
bản thảo cho các nhà văn nhà báo xem. Nhiều người không được liêm chính”.
Nhưng rồi tôi
lại nhớ đến lời của ông bạn Nguyễn Đồng: “Văn mình có giá trị người ta mới ăn
cắp. Chớ ai lấy trộm giẻ rách làm gì”.
Tôi cười mà bỏ
qua.
Rồi nhận thấy Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa có ít nhiều
giá trị, tôi định sẽ bổ túc các mục còn thiếu, các cảnh còn sót để làm thành
một phương pháp diệt phiền não.
Thật vậy.
Chẳng lúc nào tâm hồn tôi được thanh thản bằng lúc làm thơ viết văn.
Trước kia tôi
tưởng chỉ làm thơ mới đưa được tâm hồn ra ngoài và lên trên những phiền toái
của cuộc sống hàng ngày, chỉ làm thơ mới khơi vợi được những gì tích tụ, những
gì ấp ủ... trong lòng. Nhưng từ khi quen với văn thì nhận thấy viết văn cũng có
hiệu quả như làm thơ. Chỉ khác một điều là viết văn phải ngồi và mất công viết.
Song lại được cái thú là “được mỏi tay mỏi lưng phải đi nằm cho hết mỏi”. Không
mỏi mà đi nằm đâu có thú bằng mỏi mà đi nằm. Cũng như không đói mà ăn đâu có
ngon bằng đói mà ăn.
Như thế là:
viết văn làm thơ đã thú mà lại còn tìm được thích thú trong thú làm thơ viết
văn. Thành ra thú sanh thú, thú cha, thú con, thú cháu... vô tận vô cùng...
Bởi vậy nên
viết mãi không chán.
Cực chẳng đã
mới nghỉ viết.
Xứ Trầm Hương
Xứ Trầm Hương
là “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” bổ túc
và nhuận chính.
“Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” hoài thai từ
thời Pháp thuộc lúc tôi còn làm việc tại tòa sứ Nha Trang (1935-1945). Lúc ấy
thỉnh thoảng theo làm thông ngôn cho các nhà du lịch và khảo cổ ngoại quốc, tôi
biết được thêm nhiều thắng cảnh cổ tích ở những nơi xa vắng, ngoài những danh
thắng gần thành phố Nha Trang. Tôi lại được các vị tiền bối như cụ cử Phan Bá
Vỹ, cụ đề Ngô Văn Nhượng, nhà Nho Trần Khắc Thành... kể cho nghe nhiều chuyện
ly kỳ, nhiều tích lý thú.
Nhờ đó mà tôi
viết “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa”.
Vì là một bài
thuyết trình cho nên chỉ viết những nét đại khái. Tôi cũng có ý muốn viết kỹ
lại kẻo những tài liệu đã thu thập được rủi mất đi uổng. Nhưng chưa có dịp mà
cũng chưa thấy hứng.
Nhân tôi có
gởi tặng Nguyễn Hiến Lê một bản “Đôi nét
về tỉnh Khánh Hòa” và nói qua trường hợp soạn thảo. Nguyễn quân khuyên nên
viết kỹ lại. Võ Hồng và Châu Hải Kỳ cũng đồng ý cùng Nguyễn Hiến Lê. Võ quân
bảo:
- Cảnh thiên
nhiên dù có thay đổi vẫn còn dấu tích, chớ những câu chuyện liên quan hoặc
nhiều hoặc ít đến Khánh Hòa, hiện nay đã ít người biết rồi, nếu anh không viết
lại thì sau anh e không còn ai biết để viết.
Nguồn hứng vừa
khơi thì tôi lại gặp Hòa thượng Thích Trí Thủ và Đại đức Trừng San. Hòa thượng
hứa ủng hộ việc xuất bản. Đại đức cho mượn xe và hướng dẫn đi thăm các ngôi
chùa cổ và đôi cảnh cần thăm lại và có thể đến thăm.
Trong lúc đi
tôi lại thu thập thêm được nhiều tài liệu quý báu.
Những sự kiện
ấy kích thích tôi hăng hái viết về Khánh Hòa. Tôi tạm gác “Bóng Ngày Qua”.
Sau khi đi các
quận “tạm đủ” rồi, tôi lo viết. Tôi khởi sự vào đầu tháng 9 năm 1968, và quyết
cố gắng hoàn thành trước tháng 12, hầu kịp xuất bản trong tết Kỷ Dậu để làm quà
ăn mừng tuần hoa giáp của tôi.
Nhưng trời
chẳng chiều người! Vừa viết xong được 3/4 thì bị ngọa bệnh.
Nguyên tôi đau
nội trĩ đã gần 40 năm. Nhờ giữ vệ sinh nên “quân bất lương” không có cơ quấy
phá. Không biết có phải vì tôi ngồi nhiều quá hay vì “kỳ hạn đã đến” mà mạch
lương (fistules anales) trổ ra. Nghe tin bác sĩ Tân-Tây-Lan ở nhà thương Quy
Nhơn mổ giỏi, tôi bèn ra Quy Nhơn.
Mổ ngày
26-12-1968.
Cuối tháng 1
năm 1969, tôi về Nha Trang định ăn Tết xong trở ra trị cho thật lành. Nhưng
thấy vết mổ mỗi ngày mỗi cạn dần nên nằm nhà băng bó. Gần hai tháng rưỡi trôi
qua, tưởng bệnh đã lành, ngồi viết tiếp về Khánh Hòa. Mới mấy hôm bệnh trở phải
ra Quy Nhơn trở lại (15-4-1969).
Ra Quy Nhơn bị
mổ đi mổ lại đến 5 lần. Phải nằm bệnh từ nửa tháng 4 đến nửa tháng 6-1969 mới
về Nha Trang trở lại.
Sáu tháng trôi
xuôi ! (12-68 - 6-69)
Khi về Nha
Trang thì thấy tập địa phương chí “Non
nước Khánh Hòa” của ông Nguyễn Đình Tư đã bán ở các tiệm sách.
Ông Tư trước
kia làm tại Ty Điền địa Nha Trang, cùng tôi là chỗ quen biết. Tôi nghe ông ta
viết tập Non nước Khánh Hòa đã lâu. Nhưng biết rằng ông ta viết theo lối viết “Non nước Phú Yên”, nên tôi không ngại bị
dẫm chân nhau. Nhưng nghe sách ông ta đã ra, lòng tôi không khỏi nao nức muốn
đọc. Đọc xong thật mừng vì quả như lời tôi đã đoán. Song lại có hơi bực vì ông
ta đã lấy một số “ca dao” trong “Đôi nét
về tỉnh Khánh Hòa”, đã không ghi xuất xứ lại còn sửa nhiều chỗ để tỏ rằng
tự mình đã tìm ra chớ không phải mượn của tôi. Những câu ấy vốn là của tôi đặt
ra, ai biết đâu mà truyền cho ông ấy? [7]
Anh Trần Thúc
Lâm cùng mấy anh em ký giả quen biết ở Nha Trang muốn viết bài chỉ trích. Sợ có
người hiểu lầm rằng tôi đã xúi anh em vì ganh tị, nên tôi can:
- Không có gì
quan trọng, cứ để sách tôi ra đời, bạn đọc sẽ rõ trắng đen.
Rồi tôi tiếp
tục viết Khánh Hòa bị bỏ dỡ và đã hoàn tất sau ba tuần nhật cần cù.
Nhận thấy tên
“Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” không gọn
và tên “Non nước Khánh Hòa” ông Tư đã
dùng trùng, tôi bèn lấy tên: XỨ TRẦM
HƯƠNG.
Vì Khánh Hòa
có nhiều trầm hương nhất các tỉnh miền Trung, và tôi có bài ca:
Khánh
Hòa là Xứ Trầm Hương
Non
cao biển rộng người thương đi về
Yến
sào ngon ngọt tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.
Sau khi viết xong bài tựa nói rõ
tính cách và mục đích Xứ Trầm Hương. Tôi đem lên Viện Phật học Nha Trang trao
cho Hòa thượng Thích Trí Thủ để Hòa thượng đem vào Saigon in.
Công việc yên
xong vào tiết Tiểu Thử, năm Kỷ Dậu, tức trung tuần tháng 7 năm 1969.
*
Viết Xứ Trầm
Hương tôi viết theo lối hồi ký. Nghĩa là tôi ghi lại những gì tôi thấy, tôi
nghe, tôi cảm trong mấy mươi năm sống cùng non nước Khánh Hòa. Tôi chú trọng về
thắng cảnh cổ tích, giai thoại huyền thoại là những cái dễ mất. Còn những gì
thuộc về địa lý thuần túy là những cái thường còn thì nhượng cho các nhà khảo
cứu, các nhà địa lý học chuyên môn.
Do đó tôi
thích thú khi viết Xứ Trầm Hương cũng như khi viết “Bóng Ngày Qua”: Tôi viết lòng tôi, tôi sống lại.
Tôi sống lại
và làm sống lại cho Khánh Hòa nhiều “cái” đã chết hẳn trên mặt đất và trong
lòng người địa phương. Nói là chết trong lòng người địa phương kể cũng oan, vì
người hiện thời đâu phải người cựu thời. Các vị phụ lão đều qua đời hết. Anh
chị em thanh niên bị cái “mới” lôi cuốn, ít người nghĩ đến những “cái cũ” của
cha ông, bởi những cái cũ ấy không đem lại những ích lợi trực tiếp, những ích
lợi hiện tiền. Làm sống lại những “cái vô ích” ấy, tôi lấy làm khoái. Tôi khoái
riêng cùng tôi. Và tôi cảm thấy “Xứ Trầm
Hương” là một cõi riêng biệt của tôi, và tôi làm một đại biểu của người cổ
Khánh Hòa lãnh thiên chức gìn giữ những “cái” đã mất và sắp mất trước làn sóng
ngoại lai.
Viết Xứ Trầm
Hương tôi “viết” bằng máy đánh chữ.
Làm xong dàn
bài trong trí, tôi ngồi vào bàn máy là “viết” một hơi. Ý theo tiếng lóc cóc của
máy mà nhảy ra. Lời theo ý mà hình thành. Câu cú suông sẻ càng tốt, què quặc
cũng mặc. Viết xong một đoạn, siêng thì đọc lại, nhác thì cho qua...
Thật
chẳng khác viết hồi ký!
Bởi
mục đích chính là gởi gắm chút lòng, tiêu diệt phiền não, chớ đâu phải “làm
văn”.
Tuy
vậy, tánh thận trọng đã sẵn có trong người, sức uẩn nhưỡng đã nuôi sẵn từ
trước, cho nên tự tin rằng không có sự bừa bãi trong ý cũng như ngoài lời.
Khi
mới bắt đầu viết, tôi tưởng sách chỉ dày độ trăm rưỡi trang là nhiều. Vì “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” chỉ có vài
chục trương đánh máy. Không ngờ Xứ Trầm Hương dày đến trên 300 trang đánh máy.
Dày ngang “Nước non Bình Định”.
Viết
về non sông, có cái vui mà đôi khi cũng có cái buồn. Viết về Bình Định tôi buồn
cho tỉnh nhà bị mất cây cầy và cây ké ở đèo An Khê. Hai cây nầy là di tích lịch
sử . Chúng đã chứng kiến lễ tế cờ của 3 vua Tây Sơn. Cho nên phương ngôn có
câu: “Cây ké phất cờ, cây cầy khỉ cổ”. Thời Ngô Đình Diệm cán bộ địa phương đã
hạ cây ké để lấy gỗ làm trụ sở và gần đây cây cầy đã bị thuốc khai quang của Mỹ
làm rụng lá đen cành. Sống thác thế nào chưa rõ! Viết về Khánh Hòa, tôi buồn về
tấm bia Võ Cạnh.
Võ
Cạnh là một làng thuộc quận Vĩnh Xương giáp giới quận Diên Khánh và nằm phía
Nam Quốc lộ số 1.
Ở
đó có một tấm bia bằng đá xanh, cao lớn, khắc chữ “Khoa - Đẩu”. Theo các nhà
khảo cổ thì bia nầy dựng từ thế kỷ thứ II, để làm biên giới của Phù Nam và
Chiêm Thành.
Bia
nằm dưới một cây duối lâu đời, nửa ló lên mặt đất, nửa chôn dưới bùn ruộng.
Suốt bao nhiêu đời ít ai để ý.
Năm
1936, có một nhà khảo cổ đến Nha Trang. Nhờ ông học sanh Nguyễn Tấn ở Võ Cạnh,
tục gọi là Học Bảy chỉ điểm, nhà khảo cổ đến xem và quả quyết là tấm bia phân
ranh giới của Phù Nam và Chiêm Thành. Ông sứ Lavigne định đem bia về tòa sứ Nha
Trang. Nhưng chưa kịp thực hiện thì bị đổi, ông sứ Destenay đến thế. Tôi “làm
tài khéo tài khôn” vào nhắc, bị cự cho một mớ vuốt mặt không kịp! Từ ấy không
còn ai nghĩ đến tấm bia.
Khi
viết Xứ Trầm Hương, tôi nhớ đến bia ấy... Nhưng ông Học Bảy đã qua đời, quang
cảnh trong làng lại có nhiều sự thay đổi, tôi đi tìm mấy bận không còn thấy cây
duối cổ ở chỗ nào! nhờ người con ông Học Sanh là anh Ngộ tìm dùm, cũng không
biết nơi đâu là nơi có tấm bia và cây duối! Trên 30 năm rồi, cây duối làm gì
còn sống,bia đá chắc gì còn vùi lấp để đợi thiện duyên mà trồi lên.[8]
Ở
các nước văn minh, các cổ vật được bảo tồn trân trọng. Ở nước mình chánh quyền
chỉ nghĩ đến những cái mới của nước người, phần đông nhân dân cũng không có
lòng háo cổ. Thành thử cổ tích của nước nhà bị tàn rụng lần lần. Nếu tình hình
hỗn loạn cứ kéo dài thì lúc thái bình e người Việt Nam sẽ trở thành một dân tộc
mới bắt đầu dựng nước. Trong nước sẽ không còn một mảy may gì chứng tỏ rằng
mình có một nền văn hiến bốn nghìn năm!
Lắm
lúc thật là buồn!
Cầu
may vớt vát được chút nào hay chút nấy, tôi ghi chép tất cả những gì tôi thấy
tôi nghe. Dù là công dã tràng, công Tinh Vệ tôi cũng tự thấy được an ủi ít
nhiều.
Cho nên khi
làm việc văn chương, tôi thấy tôi sống, và tự cho mình sống có ích, ít nhất là
cho bản thân. Ngày tháng trôi qua mình không biết, nếu biết cũng không tiếc bởi
đã dùng làm việc cho văn chương, cho đời sống: Thì giờ không mất.
(Trích hồi ký Bóng Ngày Qua).
[1] Trong bụng thì đúng hơn.
[2] Đây là một trong bao nhiêu
trường hợp khác.
[3] Chỉ nhớ đại khái.
[4] Khách đi đường thường bảo nhau
rằng thơm có hai nơi ngon nhất là “Nhất Tam Kỳ, nhì Vạn Giã”.
[5] Phú Ân ở quận Diên Khánh.
[6] Xưa kia Khánh Dương thuộc về Ban
Mê Thuột, nên Diên Khánh nổi tiếng khô nai ở Khánh Hòa. Từ khi Khánh Dương
thuộc Khánh Hòa thì người “vi thiên” chỉ còn biết có Khánh Dương.
[7] Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa đã
được phổ biến bằng ronéo và trên đài phát thanh Nha Trang.
[8] Hiện nay bia Võ Cạnh tồn trữ tại
Viện Bảo tàng lịch sử Hà Nội. Xem phụ lục.