- Quách Tấn
Các nhà nghiên
cứu văn học ngày trước cũng như ngày nay, không mấy ai biết rằng ở Nha Trang có
một thi xã đã góp phần không ít vào việc xây dựng nền văn học Việt Nam.
Đó là Hoàng Mai thi xã.
Hoàng Mai thi
xã thành lập năm 1935. Sáng lập viên là ba nhân sĩ có uy danh ở Khánh Hòa: Nhà
Nho Trần Khắc Thành ở phường Xương Huân; cụ cử Phan Bá Vỹ ở phường Phước Hải;
cụ đề Ngô Văn Nhượng ở thôn Phú Ân nam, huyện Diên Khánh.
Thi xã mệnh
danh Hoàng Mai vì Khánh Hòa có nhiều mai vàng: mai biển có, mai núi có, mai
vườn có. Lại thêm ở Nha Trang có một rừng mai rộng mấy trăm mẫu, giăng trùm cả
vùng Phước Hải và hòn Trại Thủy trước ngày thực dân Pháp chiếm cứ Nha Trang.
Hòn Trại Thủy đầy mai cổ thụ nên có danh là Mai Sơn.
Thi xã lấy đặc
điểm của địa phương để mệnh danh, chẳng những để tỏ lòng thương yêu kính trọng
quê hương mà còn để nêu cao “văn thái phong lưu” của thi xã.
Thi xã ra đời
với bài thơ luật:
Nghiệp
cũ Hoàng Mai kể Bạch Liên
Phong
tao mong giữ nếp chân truyền
Vàng
trau cánh mộng đơm ngòi thép
Ngọc
ấm tình xuân đúc phẩm tiên
Châu
thắm xạ thơm hồn Lạc Việt
Trúc
nhuần tơ nhuyễn giọng Hàn Thuyên
Hỡi
người đãy gấm sang Nam Hải
Qua
gác Đằng Vương hãy ghé thuyền.
Bài thơ hàm
súc, vừa thích thực được bốn chữ Hoàng Mai thi xã, vừa nói lên được mục đích và
tôn chỉ cùng chủ trương đường lối phải theo.
Thi xã lập ra
không có tham vọng đào tạo nhân tài. Ba cụ Phan, Trần, Ngô noi gương người đời
Tống lập Bạch Liên thi xã mà lập Hoàng Mai Thi Xã chỉ nhằm mục đích cùng bạn
đồng thanh đồng khí xa gần, giữ vững truyền thống đẹp đẽ của cha ông để lại
trên nền văn học Việt Nam.
Thi xã chủ
trương lấy ôn, nhu, chân, hậu làm cốt, lấy thanh nhã tự nhiên làm cách, lấy chữ
Quốc ngữ làm chữ chính, thể Đường luật làm thể chính.
Những người
muốn gia nhập thi xã, trước hết phải thông thạo phép làm thơ, sau nữa là phải
có tư cách, không thiếu lễ, nghĩa, liêm, sĩ. Người tài cao học rộng mà tác
phong kém, đạo đức thiếu vẫn không được thi xã kết nạp. Do đó xã viên không quá
hai mươi người và phần nhiều là người từ bốn mươi tuổi trở lên, tân học có, cựu
học có. Trụ sở đóng tại nhà cụ cử Phan Bá Vỹ (hiện nay ở số 24 đường Lý Tự
Trọng, Nha Trang).
Thi xã mỗi
tháng họp một lần vào sáng chủ nhật đầu tháng. Họp để cùng nhau giảng cứu về
thi pháp, hoặc phê bình những áng văn chương có danh cổ kim trong nước, ngoài
nước hoặc để ra đề thơ cho xã viên sáng tác, hoặc chấm chọn những bài thơ của
xã viên trình chính...
Lúc bấy giờ
Thơ Mới nổi dậy từ Nam chí Bắc, công kích thơ Đường luật kịch liệt, gây một
phong trào rầm rộ. Phong trào khởi đầu từ năm 1932 và chấm dứt năm 1941. Năm
1935, năm Hoàng Mai thi xã ra đời, là năm phong trào Thơ Mới lên cao tột độ.
Nhưng anh em trong Hoàng Mai thi xã không chút nao núng. Anh em cũng không tìm
cách hoặc tỏ thái độ chống đối phong trào. Dưới sự lãnh đạo của ba vị tiền bối
Trần, Phan, Ngô, anh em ung dung sáng tác theo chủ trương đường hướng của thi
xã mình.
Đồng thời cùng
Hoàng Mai thi xã, ở Huế có Hương Bình thi xã do cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm
“Tao đàn nguyên soái”, ở Phan Thiết có Liên Thành thi xã do cụ Phú Khê Đoàn Tá
đóng vai “chủ nhân ông”. Hai thi xã này liên hệ mật thiết cùng thi xã Nha
Trang, thường có thơ từ trao đổi ý kiến, quan điểm và xướng họa với nhau.
Thơ của Hoàng
Mai cũng như thơ của Hương Bình, Liên Thành không đăng lên báo chí, không in
thành sách, mà chỉ đánh máy hay in ronéo phổ biến trong nội bộ. Tuy vậy những
bạn yêu thơ ở ngoài thi xã vẫn được hân hưởng những vần giai tác như:
Ăn dâu phải trả nợ bằng tơ
Vô
dụng đành mang tiếng sống thừa
Việc
cả muốn làm không đủ sức
Lòng
buồn mong tả chẳng nên thơ
Chuyện
trò với một bầy con trẻ
Bè
bạn còn vài bộ sách xưa
Miễn
giữ trọn niềm ngay với thảo
Mặc
tình ai ghét mặc ai ưa.
Đó là bài “Thư
hoài” [1] của
cụ Ngô Văn Nhượng. Lời thơ thanh lão, ý thơ thuần hậu. Tác giả đã theo đúng chủ
trương của thi xã. Anh em trong thi xã phần đông dùng làm mẫu để theo.
Thơ của cụ
Phan Bá Vĩ cũng theo đúng đường hướng của thi xã. Bài “Nha thành xuân cảm” sau
đây cũng rất được bạn trong và ngoài thi xã hoan nghênh:
Bốn
mươi xuân lẻ tết Nha Trang
Xuân
mới tình xuân vẫn cũ càng
Đầm
én Xương Huân mây phủ tía
Rừng
mai Phước Hải nắng đơm vàng
Nghề
quen bút sắt dù chăm chút
Nghĩa
thắm ngòi lông dám phụ phàng
Ngoảnh
lại thành sen cây lớp lớp
Hoa
lan thầm trổ tóc Phan lang.
Văn chương
trang nhã. Muốn thưởng thức trọn cái hay của thơ tưởng cũng nên biết qua thân
thế tác giả. Cụ Phan sanh quán ở Phan Thiết, đậu cử nhân nhưng không làm quan
với Nam triều mà làm ký lục tòa sứ Pháp. Cụ làm việc ở tòa sứ Nha Trang trên 40
năm, tạo lập cơ nghiệp ở Nha Trang và trờ thành nhân sĩ Khánh Hòa chính thức.
Cặp luận tả rõ
thân phận, chuyển kết nói lên lòng không quên cố hương là Liên Thành (thành
sen) tức Phan Thiết.
Toàn thể thơ
cụ Phan cũng như thơ cụ Ngô đều nghiêm chỉnh. Trái lại thơ của nhà nho Trần Khắc
Thành thường là thơ châm phúng. Xin đan cử một luật:
Vịnh gà què
Thôi
rồi ai ném hoặc ai quăng
Chẳng
lẽ gà sanh cẳng rứa răng?
Năm
đức đã đành trời sở phú
Hai
chân còn giận đất không bằng
Cối
xay đã thạo nghề ăn quẩn
Tiếng
gáy đừng đeo thói ghét xằng
Nghĩ
kỹ cũng mừng cho đó chút
Ra
trường chiến đấu bớt hung hăng.
Ý thông thường
nhưng khéo sử dụng tạo thành những tứ mới lạ, làm cho bài thơ có một phong cách
đặc biệt chưa từng thấy trong số thơ truyền tụng xưa nay, nhất là cặp trạng và
cặp luận. Cặp trạng thích thực “gà què” như thế là độc đáo. Cặp luận dùng
phương ngôn tục ngữ để triển khai ý “gà què” như thế là tài tình. Không phải
tay lão luyện, học rộng biết nhiều thì khó sáng tạo nên những vần thơ hay như
thế.
Trong Hoàng
Mai thi xã có ba nhà lãnh đạo có thi tài thi tâm như vậy thì tất nhiên các xã
viên học được nhiều cái hay cái đẹp trong việc lập ý, cấu tứ, tu từ và sáng tác
được nhiều giai phẩm. Nếu chúng ta ra công sưu tầm, thế nào cũng phát hiện được
nhiều giai chương lệ cú.
Nha Trang, mùa hạ năm Kỷ Tỵ (1989)