Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019

Đền thờ và di tích Hai Bà Trưng ở Hà Nội (Bài 2)


Thần tích Trưng Vương và ngôi cổ miếu bên bãi sông xưa



(Xin click vào ảnh để xem với kích thước lớn hơn)

Miếu nằm bên ngoài đê sông Hồng thuộc phường Bạch Đằng, cách Đền ở phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng về phía Đông chừng 1km. Xưa, nơi đây là vùng đất của làng Đồng Nhân Châu (Châu mang nghĩa là châu thổ, là vùng bãi bồi ven sông). Ngôi miếu và đền Hai Bà Trưng này có lịch sử liên quan với nhau, ngôi miếu này được coi là nơi khởi nguồn của ngôi đền Đồng Nhân.


Miếu được dựng từ năm 1160 đời vua Lý Anh Tông ở phường Bố Cái, tức là bãi Đồng Nhân, bên bờ sông Hồng. Đến năm 1819, đất phía Bắc làng Đồng Nhân Châu bị xói lở, dân làng dời miếu tới làng Hương Viên, tổng Thanh Nhàn, huyện Thọ Xương, dựng trên nền trường Giảng Võ của triều Lê. Khi người Pháp xây dựng Viện Pasteur, lại một lần nữa đền di chuyển vào giữa làng và tồn tại đến ngày nay ở 12 phố Hương Viên, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng hiện nay.

Theo văn bia do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1840, hiện còn dựng trước đền có đoạn: “Tại làng Đồng Nhân, huyện Thanh Trì, từ xưa có lập đền thờ Hai Bà ở bãi sông. Về sau sông lở, dân làng chọn được một nơi ở Võ Miếu, thuộc thôn Hương Viên, huyện Thọ Xương, được vua Gia Long ban cấp hơn 6 mẫu để lập đền làm nơi hương đèn phụng thờ. Việc ấy được vua xuống chỉ chuẩn y”.

Như vậy, đền Đồng Nhân ngày nay là hậu thân của ngôi miếu thờ Hai Bà ở Đồng Nhân Châu xưa, nay thuộc phường Bạch Đằng. Một số cư dân sống ngoài bãi sông Hồng cũng dời nhà theo đền mới, rồi lập đình và chùa ở hai bên đền, trở thành xóm Chùa. Về thời điểm dời đền thì sách Trưng Vương lưỡng vị sự tích có nêu đó là năm Gia Long thứ 18, tức năm 1819 (thế kỷ XIX).
Đoạn sông Hồng ở Đồng Nhân Châu xưa, xa xa là cầu Vĩnh Tuy

Nhưng sông Hồng do quá trình lở và bồi diễn ra theo chu kỳ nên ở bãi Đồng Nhân dân vẫn bám trụ nối tiếp cư trú sinh sống cho đến nay. Ngôi miếu thờ Hai Bà ngày xưa được người địa phương tiếp tục bảo tồn, trùng tu nhiều lần.

Do vậy có hai nơi thờ Hai Bà Trưng rất gần nhau cùng tồn tại ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội nhưng thực chất cũng chỉ là một. Tuy vậy, để phân biệt, dân Đồng Nhân cũng có ý gọi đền ngoài bãi là Miếu Hai Bà, còn ở trong phố là Đền Hai Bà (tức là đền Đồng Nhân).
Thêm chú thích

Miếu Hai Bà Trưng có quy mô kiến trúc nhỏ, khiêm nhường, nằm tại số 680 đường Bạch Đằng, quay hướng Đông, nhìn ra sông Hồng. Cổng được xây dựng theo kiểu tam quan, tứ trụ, đỉnh 2 trụ lớn đắp hình 4 chim phượng, đỉnh 2 trụ nhỏ đắp hình nghê. Miếu kết cấu theo kiểu chữ “ đinh” (J), đại bái 3 gian 2 dĩ, hậu cung 1 gian; 2 dãy nhà dải vũ, mỗi dãy 3 gian nằm đối diện nhau trên khu vực sân trước của miếu. Các di vật, đồ thờ còn bảo lưu được không nhiều, tiêu biểu nhất là long ngài bài vị thờ Hai Bà, bộ kiệu long đình mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn; 1 đạo sắc phong thời Lê, niên hiệu Chính Hòa 1 (1680).






Câu chuyện thần tích với hai pho tượng đá

Về câu chuyện hai pho tượng đá được tìm thấy ở Đồng Nhân Châu, có nhiều tài liệu theo những nguồn khác nhau kể lại nên không tránh khỏi những điều dị biệt. Trong bài này, xin trích từ các bài đã đăng trên báo Hà Nội Mới và những chuyện tôi từng được nghe thân phụ kể lại lúc sinh tiền.

Theo hai bài đã đăng trên báo Hà Nội Mới: “Hà Nội có hai nơi thờ Hai Bà Trưng” (http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/1000_nam_thang_long/161151/ha-n7897%3Bi-co-hai-n417%3Bi-th7901%3B-hai-ba-tr432%3Bng) và “Giới thiệu về Miếu Hai Bà Trưng” (https://haibatrung.hanoi.gov.vn/di-tich-tren-dia-ban-quan/-/view_content/441056-gioi-thieu-ve-mieu-hai-ba-trung.html) đều trích dẫn Sách Trưng Vương lưỡng vị sự tích (số A.837 của Viện Hán Nôm) như sau:
Sau khi Hai Bà bị mất tích trên sông Cái (sông Hồng), thì hóa thành tượng đá ngồi trên dòng nước, thường vọt ra khí sáng, trôi mãi đến khúc sông bãi Đồng Nhân (Đồng Nhân Châu). Đêm đêm tỏa sáng thấu trời, dân sở tại kinh dị và thuyền bè không dám đến gần. Một đêm, phường chài đậu bên bến nghe văng vẳng tiếng nói: ‘Thuyền các ngươi ô uế, nên lui xuống hạ lưu’.
Nhà vua lúc đó là Lý Anh Tông biết chuyện, sai người ra đón rước nhưng không được. Dân bãi Đồng Nhân lấy vải đỏ đón các bà vào thì thấy tượng đá cao lớn và nặng, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay trỏ lên trời, một chân quỳ, một chân ngả ra. Vua bèn giáng chỉ truyền cho dân làng này dựng đền thờ hai cỗ tượng các bà ở bên sông. Việc này là vào năm Đại Định thứ 3 (tức 1142)”.






Những khác biệt trong chi tiết không quan trọng thì có thể hiểu và chấp nhận được, nhưng sách Trưng Vương lưỡng vị sự tích của Viện Hán Nôm lại nói “Hai Bà bị mất tích trên sông Cái” đã phủ nhận việc Hai Bà chủ động thực hiện hành động gieo mình xuống Hát Giang tuẫn tiết để không rơi vào tay giặc Hán thì quả là không thể chấp nhận! Thà như sách sử của giặc Tàu cho rằng chúng đã bắt Hai Bà rồi đem về Lạc Dương xử trảm theo mong muốn của triều đinh nhà Hán.

Ngoài sách Trưng Vương lưỡng vị sự tích, theo sách Đại Nam nhất thống chí, cũng cho thấy là, muộn nhất là vào năm 1142, bên bờ sông Cái đã có làng Đồng Nhân với tên gọi là Đồng Nhân Châu, tức bãi Đồng Nhân, nơi đó có đền thờ Hai Bà. Nói cách khác, đền Hai Bà hiện diện ở bãi Đồng Nhân (phường Bạch Đằng) từ thế kỷ XII.

Cũng viết về chuyện hai pho tượng, một bài khác cũng trên báo Hà Nội Mới (http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/1000_nam_thang_long/6497/mi7871%3Bu-hai-ba-tr432%3Bng-ben-song-h7891%3Bng) lại viết:
Miếu Đồng Nhân (còn gọi là miếu Hai Bà Trưng) có từ thế kỷ XII, ở cạnh sông Hồng. Theo truyền thuyết, sau khi Hai Bà Trưng gieo mình xuống dòng Hát Giang, khí anh linh kết thành tượng đá, theo dòng nước trôi xuôi, mãi đến thời Lý mới tới vùng Thăng Long. Một đêm đầu tháng hai, pho tượng tỏa sáng trên dòng sông Nhị, trước bãi Đồng Nhân. Các làng quanh đấy thấy vậy tranh nhau ra khấn để vớt tượng về thờ nhưng chỉ dân làng Đồng Nhân vớt được.
Biết chuyện, vua Lý Anh Tông sai dân dựng miếu thờ Hai Bà ở ngay bến sông làng Đồng Nhân, lại phát đôi ngà trang trí cho hai voi thờ. Dân làng được cấp 36 mẫu tự điền, được miễn phu phen, tạp dịch để lo việc thờ cúng. Những năm trời đại hạn, các vua Lý đến miếu Hai Bà để cầu đảo, thường ứng nghiệm”.

Thử vào Wikipedia tìm thông tin (https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_%C4%90%E1%BB%93ng_Nh%C3%A2n) thì thấy tác giả nào đó viết rất ngắn gọn như sau: Thần tích thành lập. “Tương truyền sau khi Hai Bà Trưng tử tiết ở sông Hát đã hóa thành tượng đá, trôi đến Thăng Long thì rẽ nước nhô lên. Nhân dân xã Đồng Nhân đưa về lập đền thờ”.

Bây giờ, Mai Lĩnh xin kể lại những điều về câu chuyện hai pho tượng đá với lên từ sông Hồng từng được nghe thân phụ kể cho nghe khi tôi còn đi học. Cha tôi (1911 – 1989) xuất thân từ một gia đình nông dân có truyền thống Nho giáo, ông thông thạo chữ Hán, còn chữ Quốc ngữ chỉ vừa đủ để đọc sách. Nhà ở ven đê, cạnh ngôi đền thờ nhị vị Trưng Vương, hướng nhìn ra dòng Hát Giang chảy qua giữa làng Hát Môn, nơi Hai Bà Trưng trầm mình tuẫn tiết sau khi phải rút quân binh về đây vì không đủ sức chống lại đại binh của Mã Viện.

Suốt nhiều thế kỷ, người dân Hát Môn và người dân ở Đồng Nhân (thậm chí cả dân Hạ Lôi, Mê Linh) vẫn tranh cãi nhau rằng ngôi đền thờ Hai Bà Trưng của làng mình phải được coi là nơi chính thức có vinh dự thờ phụng nhị vị anh hùng dân tộc, Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Mê Linh là quê nội của Hai Bà, cũng là nơi đóng đô, xưng vương sau khi Hai Bà đánh đuổi Tô Định về Tàu, làm chủ vùng Lĩnh Nam. Hát Môn thuộc huyện Phúc Thọ, rất gần với Ba Vì là quê ngoại và các hoạt động liên lạc, tổ chức lực lượng kháng chiến, dẫn đến hội thề khởi binh chống giặc đều diễn ra ở Hát Môn, nhất là đây cũng là nơi Hai Bà chọn làm nơi chôn giấu ấn tín, giải binh trước khi tuẫn tiết.
Nhưng dân Đồng Nhân viện dẫn việc họ mới chính là nơi đã “được Hai Bà phó thác” việc thờ phụng, từ mấy chữ “Đồng Nhân phụng sự” chạm sau lưng hai pho tượng đá vớt được dưới đoạn sông Hồng ở Đồng Nhân Châu. Thân phụ tôi cùng một số nhân sĩ địa phương được dân làng tín nhiệm, giao việc tìm hiểu thần tích của Hai Bà ở Đồng Nhân.

Hát Giang là một chi lưu hữu ngạn sông Cái (sông Hồng), nối với sông Đáy, chảy về hướng Ninh Bình. Nơi Hai Bà trầm mình gần cửa Hát Giang nối với sông Hồng về phía thượng nguồn so với vị trí Đồng Nhân Châu. Khi ngư dân Đồng Nhân phát hiện hai pho tượng đá, họ tìm mọi cách vớt tượng lên nhưng không được. 
Rồi một vị bô lão uy tín trong làng nằm mơ thấy có người mách bảo: Phải dùng lụa hồng quấn quanh tượng (thay vì dùng dây chão buộc như đã làm) và chỉ những nam nhân giữ mình tinh tấn mới được lặn xuống, chỉ cần kéo nhẹ tượng sẽ nổi lên. Dân làng lập hương án, làm theo chỉ dẫn và đưa được tượng lên bờ nhẹ nhàng. Điều quan trọng là mọi người đều nhìn được bốn chữ Hán chạm sau lưng cả hai pho tượng “Đồng Nhân phụng sự”. Sau đó, vua Lý Anh Tông cho dựng miếu thờ ở Đồng Nhân Châu như đã nói trên.

Mời xem tiếp Bài 3: Đền Hát Môn.