- Quách Tấn
Ca dao Huế có
câu:
Chợ
Đông Ba đưa ra ngoài dại
Cầu
Trường Tiền đúc lại xi moong
Hỡi
người lỡ hội chồng con
Vào đây
tính cuộc vuông tròn với nhau.
Khánh Hòa có câu:
Thơm
Vạn Giã ngọt đà quá ngọt
Mía
Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hỡi
người chưa vợ chưa con
Vào
đây chung gánh nước non với mình.
Quản
bao lên thác xuống ghềnh
Mía ngon thơm ngọt đượm tình nước non.
Bài của Huế và
bài của Khánh Hòa trùng nhau ở câu 3. Câu này chỉ khác nhau chút ít thôi. Một
bên thì “lỡ hội chồng con”, một bên thì “chưa vợ chưa con”.
Bài trên ra
đời Thành Thái Duy Tân, trong khoảng 1889-1916. Tác giả phải là một chí sĩ mượn
lời người đàn bà để kêu gọi các bạn đồng chí đến với mình để mưu đồ đại sự. Các
bạn đồng chí đó là những chiến sĩ ứng nghĩa Cần Vương thời Hàm Nghi (1885-1887)
còn sống sót.
Cầu Trường
Tiền xưa bằng gỗ thường bị lụt phá hư, nên đến đời Thành Thái mới bắc lại bằng
sắt. Cầu sắt vẫn không chống nỗi sức lụt nên phải đúc lại bằng xi măng cốt sắt.
Tác giả mượn cầu để nói lóng rằng: “Cuộc chống Pháp trước, vì tổ chức chưa chặt
chẽ vững vàng nên bị thất bại, chớ nay đã củng cố nghiêm túc rồi thì nhất định
đại sự sẽ thành công”.
Bài Khánh Hòa
mới xuất hiện khoảng 1942-1945, lúc Nhật đã đóng quân ở Nha Trang, trên lưng
nhân dân Việt Nam nói chung, Khánh Hòa nói riêng phải chịu hai gánh nặng xâu
thuế, một của thực dân Pháp, một của phát xít Nhật. Ở Khánh Hòa lúc bấy giờ có
một nhóm trí thức vận động tổ chức một mặt trận cứu nước. Bài kia là một bài
kêu gọi đồng chí vì phải chống đến hai kẻ thù nên chiến sĩ phải là người “chưa
vợ, chưa con” tức là chưa hề có liên hệ gì đến Pháp, Nhật.
Mục đích kêu
gọi của hai bài là một: “Chống xâm lăng cứu nước” nhưng đối tượng kêu gọi khác
nhau, một bên là người cũ, một bên là người hoàn toàn mới.
Nếu không rõ
bối cảnh lịch sử thì không thấy chỗ “úp mở” trong hai bài ca dao.
Nhân tiện cũng
xin nói thêm:
“Tổ chức chống
xâm lăng ở Khánh Hòa đã thành hình, nhưng người được cử làm “Tổ trưởng” lại
manh tâm theo Nhật. Một số “tổ viên” thấy rõ nguy cơ liền rút lui khỏi tổ chức.
Để lại cho tên tổ trưởng một bài ca:
Sông
Nha Trang cát vàng nước lục,
Thảnh
thơi con cá đục
Lội
dọc lội ngang.
Đã
thề cùng em giữ dạ đá vàng,
Quý
chi tách cà phê đen ly sữa bò trắng,
Anh
nỡ phụ phàng nước non!
Nét
bia hòn Chữ chưa mòn
Lưỡi
gươm tiết hận hãy còn mài trăng.
Trong khi vận động tổ chức cũng có lắm
bài ca, sau đó trở thành ca dao:
Anh
đứng Hòn Chồng
Trông
ra Hòn Én
Trở
về Tháp Bà
Về
viếng Sinh Trung
Non
xanh nước biếc trập trùng
Biết
bao liệt nữ anh hùng em ơi!
Em
hãy nhận lời
Cùng
anh kết ngãi
Đầu
nguồn cuối bãi
Ta
hãy nương nhau
Sông
Cù nước mãi còn sâu
Công
linh chẳng trước thì sau cũng thành.
Ở Phú Khánh,
thời Pháp thuộc sản xuất nhiều thơ ca yêu nước. Trên đây mới dẫn đôi bài ở
Khánh Hòa, mong được góp thêm vào tập thơ ca Phú Khánh.
(Trầm Hương, tháng 3-1989)