CẢNH THỊNH RA
BẮC THÀNH
NGUYỄN PHÚC
ÁNH XƯNG ĐẾ HIỆU
Nhờ Bùi nữ tướng hộ giá, Vua Cảnh Thịnh cùng
cung quyến qua khỏi Linh Giang, ngày 5 tháng 5 năm Tân Dậu (1801). Đến Thanh
Hóa phi báo cho Nguyễn Quang Thùy vào rước.
Tới Bắc Thành Cảnh Thịnh ngự nơi cung Vua Lê.
Lúc bấy giờ mưa luôn cả tuần. Trong thành nước
ngập lênh láng. Nước giựt rồi lại bị địa chấn. Đất trước hoàng cung bị sụt hàng
mẫu, sâu đến ba bốn thước. Ở Nghệ An, lầu Tam Tằng nơi Phụng Hoàng thành khi
không mà ngã. Thiên hạ đều cho là triệu bất tường.
Vào hạ tuần tháng 5 năm Tân Dậu, nhà vua đổi
niên hiệu là Bửu Hưng, xuống chiếu nhận lỗi cùng nhân dân và vỗ về tướng sĩ các
trấn. Lại cử Thi trung Đại Học Sĩ Ngô Thời Nhậm làm Binh Bộ Thượng Thư, Hiệp
biện Đại Học Sĩ Nguyễn Thế Lịch làm Lại bộ Thượng Thư, Thị trung Ngự Sử Phan
Huy Ích là Lễ bộ Thượng Thư. Các quan văn võ khác thảy đều được thăng thưởng.
Nhà vua còn sai đắp đền Phương Trạch tại Tây
Hồ, lấy ngày Hạ chí và Đông chí làm ngày lễ Trời Đất, cho mở khoa thi để tuyển
nhân tài.
Đến tháng 8, nhà vua truyền hịch đi các trấn
để lấy thêm binh, rồi sai Nguyễn Quang Thùy đem quân vào trấn Nghệ An.
Qua tháng 11, nhà vua giao Bắc Thành cho hai
em là Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh, tự mình đem quân 4 trấn xứ Bắc và
quân Thanh Hóa, Nghệ An non 3 vạn người, kéo binh đến Linh Giang, nữ tướng Bùi
Thị Xuân đem 5.000 thủ hạ theo hộ giá.
Tướng nhà Nguyễn Là Nguyễn Văn Trương và Tống
Phước Lương, Đặng Trần Thường thấy binh thế của Tây Sơn quá mạnh, bỏ Linh Giang
rút về Đồng Hới. Nguyễn Phúc Ánh được tin, liền thân chinh, đem đại binh ra
tiếp ứng. Đóng đại binh tại Đồng Hới. Sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem
quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), Vua Bửu Hưng
sai Nguyễn Quang Thùy và Tổng Quân Siêu tiến quân lên đánh Trấn Ninh, Đô Đốc
Nguyễn Văn Kiên và Tư Lệ Tiết thì đánh lũy Đâu Mâu, Thiếu úy Đặng Văn Tất và Đô
Đốc Lực thì đem 100 thuyền chiến chặn ngang cửa Nhật Lệ.
Trấn Ninh, Đâu Mâu, Nhật Lệ đều thuộc Quảng
Bình.
Đó là ba căn cứ quân sự rất trọng yếu ở địa
đầu trấn Thuận Hóa.
Trấn Ninh ở địa phận xã Phú Ninh, huyện Phong
Lộc. Năm Nhâm Dần (1662) Nguyễn Hữu Dật tôi nhà Nguyễn đắp lũy Trấn Ninh để
ngăn giặc biển, lại đắp lũy Sa Phụ để nương tựa nhau. Họ Trịnh đem quân vào
đánh Thuận Hóa, đánh mấy tháng không qua khỏi lũy này, phải rút quân trở về
Bắc.
Phá Nhật Lệ ở đông bắc huyện Phong Lộc, cũng
thuộc xã Phú Ninh. Chu vi ước 5 dặm. Phía đông có gò cát bao la, đồi cao xanh
rậm, biển cả chạy quanh ở đông bắc, các núi triều cũng ở tây nam sông Nhật Lệ,
tức sông Đồng Hới, chạy ra Phá.
Núi Đâu Mâu ở phía tây huyện Phong Lộc, tọa
lạc xã Lệ Kỳ. Núi gò trùng điệp, cây cối sầm uất. Đỉnh cao nhọn hình như mão
đâu mâu, khí thế hùng vĩ. Chân núi gối sông Nhật Lệ, lũy do chúa Nguyễn đắp để
ngăn quân Trịnh, chạy dài dưới chân núi.
Lũy Trấn Ninh và Đâu Mâu đã kiên cố lại phòng
vệ nghiêm túc, đánh mãi mà không hạ nổi. Vua Bửu Hưng liền đem tất cả binh mã
tới đánh Đâu Mâu. Quân trên thành dùng súng đại bác bắn xuống và lấy đá lớn
quăng xuống. Quân Tây Sơn lớp bị thương lớp chết rất nhiều. Vua Bửu Hưng sợ
muốn rút lui. Bùi nữ tướng không chịu, xin cho ra đốc chiến. Nhận thấy trong
những khoảng có súng bắn thì không có đá quăng, mà súng thì bắn xa, dưới chân
thành không bị đạn, súng lại không bắn liên tục được, nữ tướng bèn lanh lẹ nhảy
vào chân thành. Nữ binh theo gương nhảy theo từng loạt. Vào tới chân thành,
chuyền lên vai nhau, trèo vào thành. Lính canh súng và quăng đá không đề phòng.
Ở ngoài binh Tây Sơn cứ những nơi không có đạn bắn đá quăng, tiến vào chân
thành, và theo phương pháp “chuyền vai” mà lên. Hai bên đánh xáp lá cà. Đánh từ
sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp.
Trong bài Bùi phu nhân ca của cụ Vân Sơn
Nguyễn Trọng Trì có đoạn rằng:
Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao
Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh
bào
Hoàng hôn thành dốc bi già động
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều
Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc
Mộc Lan tòng quan Hoàng Hà Khúc
Thùy ngôn cân quắc bất như nhân
Dĩ cổ phương kim tam đinh túc
Nghĩa là:
Khí
xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra.
Gió
xuân thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào
Nơi
góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn
Có
người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung
Thật
chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
Và
nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà
Ai
bảo khăn yếm không bằng người?
Từ
xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc
Đây là tác giả tả Bùi nữ tướng lúc đánh thành
Đâu Mâu.
Thành sắp hạ được thì có tin thủy quân Nhật Lệ
bị quân nhà Nguyễn đánh tan. Nguyễn Quang Toản hoảng hốt ra lệnh lui binh.
Không sao cản được, Bùi nữ tướng phải mở đường máu để tháo quân. Đô Đốc Kiên và
Tư Lệ Tiết không theo kịp, phải đầu hàng.
Bửu Hưng Nguyễn Quang Toản chạy đến Linh Giang
thì bị tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Trương chận lại. Quân Tây Sơn không còn sức
chống cự, Bùi nữ tướng lại một phen nữa phải xông tên đạn để đưa Quang Toản
sang sông.
Về đến Nghệ An, kẻ tùng giả còn không quá vài
trăm! Bùi nữ tướng, mình đầy thương tích, nhìn thấy đoàn nữ binh sống sót, máu
me đẫm áo, thì lệ anh hùng khôn ngăn.
Trong trận Đâu Mâu này, nữ tướng Huỳnh Thị Cúc
đã sát cánh cùng Bùi nữ tướng hợp lực chiến đấu công thành, liên kết tiếp sức
nhau khi mở đường máu rút quân khỏi thành và dốc hết khí lực, tài năng mới đưa
được Vua Cảnh Thịnh qua sông.
Huỳnh nữ tướng cùng một số nữ binh còn sống ở
lại chặn quân nhà Nguyễn.
Sáng hôm sau Huỳnh Thị Cúc cùng mười nữ binh
áo ướt đẫm máu, về đến thành. Vừa trông thấy Bùi nữ tướng, Huỳnh Thị Cúc vội vã
chạy đến ngã vào lòng. Bùi nữ tướng ôm lấy em, Huỳnh nữ kiệt nhìn chị lần cuối
rồi tắt thở.
Ở Trấn Ninh, Nguyễn Quang Thùy nghe tin đại
binh rút lui, liền cũng rút lui. Nhưng không qua nổi Linh Giang, phải chạy lên
đường núi mà đi, hơn tuần nhật mới về đến Nghệ An.
Anh em gặp nhau, Bửu Hưng cùng Quang Thùy ra
Bắc, để Nguyễn Văn Thân ở lại giữ Nghệ An. Bùi nữ tướng, thương tích chưa lành,
nên xin ở lại Nghệ An điều dưỡng.
Nguyễn Phúc Ánh thắng quân Tây Sơn ở Trấn
Ninh, Nhật lệ rồi, bèn đem quân về Phú Xuân, để Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới,
Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường giữ Linh Giang.
Trong lúc Nguyễn Phúc Ánh đem quân ra Đồng Hới
thì ở Quảng Nghĩa, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem quân đi lọt được vào Quy Nhơn,
Lê Chất đi đường biển vào cửa An Dũ, Lê Văn Duyệt theo đường hẻm Chung Xá vượt
qua núi La Sung, hợp nhau ở Bồng Sơn, rồi kéo vào Quy Nhơn. Nghe tin Lê Văn
Duyệt và Lê Chất đã vào được Quy Nhơn, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức ở Phú
Yên kéo quân ra tiếp ứng. Quân Tây Sơn do Võ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn
Văn Lộc điều khiển, chia nhau ra chặn đánh.
Trận đánh lớn nhất là trận đánh ở Kỳ Sơn, giữa
Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành.
Kỳ Sơn ở phía đông nam thành Quy Nhơn.
Đó là một hòn thổ sơn chạy dài theo hướng bắc
nam, bao quanh đến vài mươi dặm. Hình núi không đều, hai đầu mở rộng và cao,
chính giữa hơi eo và thấp. Ở đầu phía bắc nổi lên hai đỉnh đứng song song, một
gọi là Phụng Sơn, một gọi là Xuân Sơn. Đầu phía Nam, một ngọn nửa cao suýt soát
hai ngọn kia, gọi là Mai Sơn. Trên núi có nhiều hòn đá to lớn và có một cái hầm
rộng lớn ăn sâu vào núi, gọi là Quy Khanh tức Hầm Rùa, vì trước miệng hầm có
hòn đá lớn hình giống con linh quy. Thế núi rất hiểm trở.
Nguyễn Văn Lộc là người Kỳ Sơn, biết rõ những
nơi hiểm yếu. Với 8.000 quân, phục hơn 20 chỗ, đại phá được 3 vạn quân của Lê
Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành.
Nhờ vậy mà quân nhà Nguyễn không đến gần được
thành Quy Nhơn. Quân trong ngoài ra vào không trở ngại. Quân nhà Nguyễn đóng
giữ mặt bắc ở Thạch Tân và mặt bể ở Cách Thử, Thị Nại. Quân Tây Sơn cũng đóng
yên trong và ngoài thành, gờm nhau với quân nhà Nguyễn.
Chợt Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị
thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất Thuận Hóa
thì thất kinh, bàn cùng các tướng.
- Binh mã đã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá
nhiều, lực lượng ở Bắc Thành không còn mấy. Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đến
đánh thì Bắc Thành không thể trì thủ được lâu. Ta phải đem quân về cứu, kẻo Bắc
Thành thất thủ nữa thì Quy Nhơn có giữ vững cũng không ích gì. Vậy nên bỏ thành
Quy Nhơn. Võ tướng quân cùng tôi đem đại binh ra Bắc. Nguyễn Quang tướng quân
đem binh đóng ở Dương An, Nguyễn Văn tướng quân về đóng ở Kỳ Sơn, để chia bớt
lực lượng của quân Nguyễn. Không nên đóng quân trong thành mà bị địch bao vây.
Sắp đặt xong, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng
cùng các bộ tướng đem 3.000 quân, 80 thớt voi, theo đường thượng đạo sang Lào
để ra Nghệ An, vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).
Sau khi quân Tây Sơn bị đại bại ở Nhật Lệ và
Trấn Ninh, thì đất Thuận Hóa từ Hải Vân Sơn đến Linh Giang hoàn toàn thuộc về
nhà Nguyễn.
Ngày 2 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn
Phúc Ánh xưng đế, đặt niên hiệu là Gia Long.
Lên Ngôi vua rồi, Gia Long sai trịnh Hoài Đức,
Ngô Nhân Tĩnh đem phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh đã phong cho Tây Sơn,
sang nạp cho “Thiên Triều” và xin cho mình làm An Nam Quốc Vương thay thế Tây
Sơn.
Liền đó Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh đi đánh
Bắc Hà, sai Nguyễn Văn Trương lãnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lãnh bộ
binh, đi trước.
Thágn 6, quân bộ qua sông Linh Giang, tiến lên
đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống, rồi cùng đánh phá các đồn lũy của
Tây Sơn. Viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thuận bỏ thành chạy ra giữ đồn
Tiền Lý ở Diễn Châu.
Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã
đến Quy Hợp.
Đường đi khó khăn, hết đèo lại dốc, phần lam
sơn chướng khí, phần rắn độc thú dữ, phần bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn như Hà
Công Thái, Nguyễn Đình Ba... đột kích, đoàn tùy tùng Trần Quang Diệu bị hao hụt
dần dần. Khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ còn ba bốn. Đoàn tượng binh chỉ còn
mươi thớt! Tướng sĩ hầu hết đều bị sốt rét rừng. Trần Quang Diệu bị phù thủng,
đi đứng khó khăn.
Trần Quang Diệu kéo quân xuống Hương Sơn.
Tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Đức Định dẫn Man binh đến đánh bất thình
lình. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết sạch! Trần Quang Diệu cùng các bộ
tướng Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Điềm, Nguyễn Văn Miên, Võ Văn Dũng
đều bị bắt.
Ở Diễn Châu, Bùi nữ tướng hay tin, liền đem nữ
binh đi giải cứu.
Đến Giáp sơn thì giải cứu được. Chạy đến sông
Thành Chương thì bị quân nhà Nguyễn chận đánh. Quân Tây Sơn liều chết lăn xả
vào chém giết quân Nguyễn. Bùi nữ tướng và đoàn nữ binh xông vào đâu thì binh
Nguyễn rã đến đó. Nhưng quân Nguyễn quá đông, quân Tây Sơn dần dần bị yếu thế.
Các tùy tướng lớp bị chết, lớp bị bắt trở lại. Chỉ có Bùi nữ tướng, Trần Quang
Diệu và Võ Văn Dũng thoát khỏi. Song Trần Quang Diệu kiệt sức đi không nỗi nữa.
Nữ tướng phải lo bảo vệ chồng, không rảnh tay chống cự cùng binh tướng nhà
Nguyễn, nên cả hai vợ chồng đều bị sa cơ. Một mình Võ Văn Dũng thoát được.
Nhưng chạy ra đến Nông Cống (Thanh Hóa), bị bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo
dân địa phương ra bao vây. Một mình không chống nổi đám đông. Võ bị bắt trở
lại.
Trần Quang Diệu, Bùi nữ tướng, Võ Văn Dũng đều
bị đóng cũi giải về Nghệ An nạp cho Nguyễn Phúc Ánh. Dọc đường Võ Văn Dũng phá
cũi thoát thân, Bùi nữ tướng không nỡ bỏ chồng, đành ở lại để cùng chết.
Dẹp yên Nghệ An, Nguyễn Phúc Ánh xua quân ra
đánh Thanh Hóa. Đốc trấn là Nguyễn Quang Bàn khiếp sợ mở thành đầu hàng. Đô Đốc
Đặng Xuân Bảo cương quyết:
- Làm tướng chỉ biết đánh chớ không biết đầu.
Rồi hô lớn:
- Quân sĩ, ai muốn theo tôi?
Vài ngàn quân sĩ dạ to một tiếng rồi cùng chủ
tướng xông ra thành.
Quân Nguyễn đông như kiến. Nhưng quân Tây Sơn
không chút e dè. Tướng lướt đi trước, quân đi sau giáo gươm đâm chém, như mưa
xối bão táp, không ai chống đỡ nổi. Nhưng rồi quân Nguyễn chạy ra xa dùng tên
đạn bắn. Xông qua mũi tên làn đạn, hết lớp này đến lớp khác, quân Tây Sơn bị
chết lần lần. Đặng Xuân Bảo bị trúng đạn té quỵ. Quân Nguyễn ùa ra bắt sống.
Quân Nguyễn Phúc Ánh kéo vào thành, Nguyễn
Phúc Ánh dụ hàng. Bảo nhất định không hàng, nhịn ăn năm ngày không chết, bèn
đập đầu vào vách tuẫn tiết.
Lấy được Thanh Hóa rồi quân Nguyễn Phúc Ánh
rầm rộ kéo ra Bắc Thành.
Lực lượng Bắc Thành lúc bấy giờ đã quá yếu.
Bao nhiêu tinh binh, nhà vua đã đem đi đánh Trấn Ninh và Nhật Lệ, tân quân ở
các trấn về, chưa tập luyện được thành thục, nên vừa giáp trận đã rã rời.
Quân Nguyễn Phúc Ánh rầm rộ kéo đến Thăng
Long. Quân Tây Sơn nghe tin khiếp đảm, bỏ thành trốn gần hết. Liệu không thể
chống giữ nổi, Đại Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết và phu nhân là bà Trần Thị Lan đưa
Vua Bửu Hưng cùng cung quyến sang sông Nhị Hà chạy lên vùng núi phía Bắc. Đô
Đốc Nguyễn Văn Tứ, Tư Mã Nguyễn Văn Dụng theo hộ giá.
Để ngăn giặc đuổi theo, Nguyễn Quang Thùy cùng
Đô Đốc Trương Đăng Đồ tức Tú Đức Hầu và phu nhân ở lại giữ thành[1].
Thế giặc mạnh như bão táp, không sao địch được, hai ông bà Tú Đức Hầu phò
Nguyễn Quang Thùy chạy về ngả Sơn Tây, để cho giặc đuổi theo mình chớ không
đuổi theo Vua và cung quyến.
Đoàn Ngự giá đến Xương giang, đêm nghỉ ngơi
nhà dân địa phương, bị kẻ bất lương đi cáo giác. Quân nhà Nguyễn kéo đến vây
đánh, Nguyễn Văn Tứ và Nguyễn Văn Dụng bị tử trận. Hai ông bà Đô Đốc Tuyết phá
được vòng vây, phò xa giá chạy được mươi dặm nữa thì quân nhà Nguyễn do Lê Chất
chỉ huy đuổi kịp. Giáp mặt Lê Chất, Đô Đốc Tuyết hỏi:
- Nhà ngươi quên ơn chúa cũ?
Chất đáp:
- Ngũ Tử Tư chỉ nhớ đến thù cha.
Đô Đốc truyền phu nhân phò Ngự giá chạy trước,
còn mình thì kịch chiến cùng lê Chất. Một mình tả xông hữu đột, quân Nguyễn
núng thế toan thối lui, thì một phát súng bắn trúng Đô Đốc té nhào. Quân Nguyễn
liền đuổi theo Ngự giá. Trần phu nhân hết sức chống cự, nhưng ít không thắng
nổi đông, cả đoàn đều bị bắt. Không thể để địch làm nhục, phu nhân liền tự sát
cùng với Thái Hậu Bùi Thị Nhạn.
Vua Bửu Hưng cùng cung quyến đều bị giải về
Thăng Long.
Đó là ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802).
Mấy hôm sau Nguyễn Quang Thùy và vợ chồng Tú
Đức Hầu cũng bị bắt ở Sơn Tây, Nguyễn Quang Thùy đập đầu tuẫn tiết. Tú Đức Hầu
cùng phu nhân rút gươm tự sát.
Nhà Tây Sơn mất!
[1] Trương Đăng Đồ người làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Nghĩa (chú ruột Trương Đăng Quế). Văn võ toàn tài. Bà phu nhân sắc đẹp, võ
giỏi, cùng nữ tướng Bùi Thị Xuân và bà họ Trần vợ Đô Đốc Tuyết là chỗ thâm
giao.