LÒNG DÂN ĐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN
Danh
người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, người đã hai phen thảo quân xâm
lược do Duy Kỳ thỉnh về, Phúc Ánh rước tới, cứu nhân dân Việt Nam thoát vòng nô
lệ của ngoại quốc, cùng mặt trăng mặt trời rạng rỡ trên sông núi Việt Nam.
Và
nghĩ rằng nếu không có Vua Thái Đức mở đường, Đông Định Vương giúp sức thì chắc
gì đã có những chiến công oanh liệt của Vua Quang Trung, nên người Bình Định,
nhất là người Bình Khê, ghi nhớ cả ba người anh hùng áo vải
Bởi
vậy, sau khi ngôi từ đường của nhà Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn phá hủy thì
ngôi đình làng thay thế vào.
Đình
làng dựng lên để thờ thần. Nhưng nhân dân địa phương đem sắc thần để một ngôi
miếu khác, còn đình thì bí mật thờ ba Vua Tây Sơn. Xuân kỳ thu tế, nhưng chỉ
vái thầm chớ không đọc văn.
Ngoài
xuân kỳ thu tế, còn ngày kỵ của ba vua vào tháng 11 âm lịch. Để che mắt vua
quan nhà Nguyễn, ngày kỵ gọi trại là ngày “cúng cơm mới”.
Lâu
ngày chánh quyền địa phương biết được, nhưng một mặt sợ “thần linh bẻ họng”,
một mặt sợ thất nhân tâm, nên bóp bụng làm lơ.
Lòng
kính yêu nhớ tiếc ba Vua Tây Sơn thấm thía và bền bỉ, chẳng những ở trên tầng
lớp sĩ phu mà cả dưới mọi tầng lớp nhân dân. Bất kỳ trẻ già trai gái, hễ đi qua
đình Kiên Mỹ, là lấy nón cúi đầu. Khách đi ngựa đi võng đều phải xuống ngựa
xuống võng. Và ca dao địa phương có câu:
Đá Hàng cữ nước không sâu
Hàng Thuyền lai láng mặc dầu cá đua.
Có đua sông trước thì đua
Sông sau mắc miễu thờ Vua xin đừng[1].
Lòng
kính yêu nhớ tiếc nhà Tây Sơn chẳng những ở thời trước, mà cho đến năm 1945 vẫn
nồng nàn như cũ. Xuân kỳ thu tế, ngày kỵ “cúng cơm mới” trong năm 1945 vẫn cử
hành theo thường lệ. Đến năm 1947 có lệnh tiêu thổ kháng chiến, đình miễu bị
phá hủy, việc cúng tế mới thôi.
Năm
1960, nhân dân Bình Khê chung tiền chung sức lập lại đền thờ Tây Sơn nơi đình
cũ.
Đền
không lấy gì làm rộng lớn, song trang nghiêm. Đối với sự nghiệp anh hùng thật
không xứng. Nhưng đối với hoàn cảnh thiếu thốn của nhân dân địa phương lúc bấy
giờ, thì chừng ấy cũng là một cố gắng vượt mức.
Đền
có ba gian.
Gian
giữa thờ vua Quang Trung.
Hai
bên thờ vua Thái Đức và Đông Định Vương.
Trước
sân có tượng bán thân của Vua Quang Trung và có bi đình khắc bài ký tán tụng
công đức nhà vua:
Đức
Vũ Hoàng,
Họ
Nguyễn, húy Huệ.
Ứng
hùng năm Quý Dậu (1753),
Thừa
long năm Nhâm Tý (1792)
Thọ
40 tuổi, ở ngôi 5 năm.
Niên
hiệu Quang Trung.
Miếu
hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Đế.
Tổ
tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn được bốn đời. Trước ở Phú Lạc, sau
xuống Kiên Thành buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ chỉ.
Vũ
Hoàng có ba anh em.
Anh
là Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.
Em
là Đông Định Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.
Còn
Vũ Hoàng:
Sức
mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần, lại sùng thượng kinh văn, quý trọng đạo
lý. Kẻ cao tài đại đức được tôn kính vào bậc thầy. Văn võ dưới cờ đều những
trang khai quốc tuấn kiệt.
Thân
bố y, tay trường kiếm, Vũ Hoàng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu.
Quả
là cái thế anh hùng vậy.
Năm
Tân Mão (1771), thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ đặt tay
chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà dấy nghiệp. Lấy
thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra Bắc. Lòng xa gần đều theo.
Trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn lẫy lừng.
Riêng
Vũ Hoàng.
Bốn
lần bạt thành Gia Định, ba lần vào thành Thăng Long. Thắng chúa Nguyễn, diệt
chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên cơ nghiệp Võ Thang.
Lại
hai phen thảo quân xâm lược:
Năm
Giáp Thìn (1784) quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước
tới.
Năm
Kỷ Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về.
Nhờ
vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.
Nhờ
vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.
Công
thật cao như Trường Sơn.
Ân
thật sâu như Nam Hải.
Non
sông đãng định, Vũ Hoàng chăm lo việc trị bình.
Đắp
quốc cơ theo tôn chỉ phú cường. Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm túc. Dùng chữ
Nôm làm quốc gia văn tự. Lập Sùng Chính viện để đào tạo nhân tài.
Và
cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hoàng luyện tướng nuôi
binh, quyết khôi phục phần đất Lưỡng Quảng.
Nhưng
than ôi!
Năm
sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá,
Chín
tầng mây lấp núi, rồng thoát bay xa.
Khiến
nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!
Khiến
nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh!
Tuy
nhiên,
Danh
Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời mà sáng.
Ân
Vũ Hoàng vẫn cùng núi Trưng núi Tượng mà cao.
Và
nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng:
“Non Tây áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
Tiết Trọng Xuân năm Tân Sửu (1961)
Nhân dân Bình Khê cẩn ký”.
Sau
khi đền lạc thành, cứ mỗi năm, đến ngày lễ Đống Đa, nhân dân toàn tỉnh Bình
Định hợp nhau tại đền làm lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm cử hành theo cổ lễ, nhưng
những cuộc vui thì có mới có xưa. Người đến dự lễ vô cùng đông đúc. Ngựa xe như
nước áo quần như nêm.
Và
riêng nhân dân Bình Khê, rằm tháng 11 âm lịch, lại tổ chức ngày kỵ ba Vua theo
thường lệ.
Trong
buổi lễ Đống Đa và ngày kỵ đều có đọc văn tế và cử nhạc theo cổ lễ.
Hai
bài văn tế đầu tiên:
Văn Tế Đống Đa:
“Than
ôi!
Dòng Côn thủy mây lồng thức gấm, mãn
vui tình mai liễu độ xuân;
Đỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng,
chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tôn linh xưa:
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc.
Sức điều binh khiển tướng, Hạng Võ
Lưu Bang
Lòng trọng sĩ tôn hiền, Văn Vương
Huyền Đức,
Tình đất nước giận cơn chia xẻ, lưỡi
gươm thần dẹp loạn cứu dân;
Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân
áo vải giúp anh dựng nước.
Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường
vân,
Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng
bạch nhật.
Xiêm phê áp phủ, trên chín trùng
toan mối trị bình,
Vuốt dũa nanh mài, ngoài muôn dặm
rắp tâm xâm lược.
Cõng rắn tội kìa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước.
Tế Trời Đất đàn Giao cao vút vút,
bóng tinh kỳ sáng dọi buổi đăng quang.
Nhìn non sông khí giận ngất từng
mây, tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuất phát.
Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!
Chiến tượng hai trăm tinh trường
trận mạc.
Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn
nước non ca khúc khải hoàn sau.
Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang,
cùng tướng sĩ chung vui Nguyên Đán trước.
Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong:
Dốc dạ truy tùy, non băng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản
Thủy dồn binh;
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi
hãm giặc.
Đánh trận này tiếp trận khác, sấm
dậy chớp giăng:
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá
nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt
lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng,
quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận chẳng hơn thì thác.
Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ,
thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào
mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván
dày cột thành cốt,
rơm ướt phủ làm bì, hò một rập sức
cuồn cuộn thác,
Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kịp hạ, sông
máu láng lai;
Thúc chân voi, Khương Thượng liều
thân, núi thây chồng chất.
Nghi Đống liệu khôn bề sống sót, vội
vàng treo cổ Đống Đa!
Sĩ Nghị may tìm được lối ra, hớt hải
thoát thân mạn Bắc.
Ngoài ải sói gió tan mùi sát khí,
niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên;
Vào thành Long cờ rợp bóng vinh
quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược.
Mười ngày hẹn trước, trời đất chứng
lời vàng;
Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc
ngọc.
Lửa tạnh hề biên cương
Nền cao hề xã tắc,
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy
sấm,
Triều Mãn Thanh bóp bụng sống chung
trời;
Chí đấu tranh gan sắt vững vàng non,
Niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại
đất,
Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;
Đỉnh Ngự chìm mây, rồng sao vội
khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dòn thoi phút để mối tơ chùng!
Nghiệp đế vương đuối sức giữ gìn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió
lật!
Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!
Biển Thị Nại bèo mây tản móc!
Bút chép sử múa men tay đắc thế:
trang oanh liệt son nhòa!
Nền ghi ân khuất lấp bóng cô thôn:
gương anh hùng thủy nhạt!
Nối chí cả người sau toan lấp hận,
Lao công Tinh Vệ, ngậm ngùi thương.
Gìn dấu linh chốn cũ khó nguôi tình,
Lắng giọng đề quyên tê tái ruột,
Cũng may thay!
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng
xoay,
Ách chuyên chế giống nòi nay đã
thoát,
Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn
đông phong mát mẻ vén màn sương;
Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh
nghị ngọt ngào rơi giọt móc
Chúng tôi nay:
Chung gội ơn xuân.
Kính dâng lễ bạc,
Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ
màng,
Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành
bát ngát.
Dòng lịch sử mở ra ôn lại, dịu dàng
chữ gấm dệt lời hoa.
Tranh vĩ nhân trải rộng xem chung,
lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.
Hầm hô con cá nhảy, trong bóng mây
thấp thoáng bóng rồng
Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng
gió lẫy lừng tiếng nhạc.
Linh thiêng xin chứng”.
Bài văn nhân dân Bình Khê tế Tây Sơn
tam kiệt ngày rằm tháng 11.
“Duy!
Nước bị
qua phân,
Nhà sanh
tam kiệt,
Non Tây áo
vải, phất nghĩa kỳ dẹp loạn an dân.
Đất Việt
khí thiêng, tung bửu kiếm diệt thù cứu nước.
Nền đế
nghiệp xây cao trời một cõi,
Bước tiền
đồ hoa cỏ đón mừng xuân;
Tiếng anh
hùng vang dội sấm mười phương,
Miền biên
tái sài lang im lặng dấu.
Ví thử
bóng rồng không vội khuất
Thì chi
đuôi ngạc dễ mà tung.
Biển nên
cồn thời vận khéo xui, tay bé không xoay trời đất lại;
Đất vá
khuyết cơ duyên chưa gặp, dấu linh còn tạc nước non đây.
Nhân dân
Bình Khê chúng tôi:
Lắng hơi
quyên trằn trọc giấc canh chầy.
Mơ bóng
hạc thẫn thờ đêm nguyệt rạng.
Đền cũ dâng
lòng hương một nén;
Bia xanh
tạc đức ngọc muôn hàng.
Cá nhớ
nguồn lên xuống nước Côn giang, dạ nhắc dạ mồi thơm chẳng tưởng;
Chim mến
cội đi về cây Tượng Lĩnh, đàn gọi dàn gò thấp chớ nương.
Một lòng
nguyện giữ sắt son,
Muôn gội
dám quên mưa móc.
Nay:
Niệm kỳ
húy nhật, lá vàng điểm tiết hàn đông;
Chứng tấc
thành tâm, lễ bạc dâng trời dị lộ.
Trăm thước
trầm hương cuồn cuộn gió,
Đôi hàng
bạch lạp ngập ngừng châu.
Nâng kim
bôi rượu đủ ba tuần, phảng phất long nhan dường thấy đó;
Trước linh
án lễ rồi bốn lạy, mơ mang loan giá trở về đây.
Gương
nghìn thu lai láng ánh quang huy,
Trong
khuất tịch cũng không còn hắc ám;
Đất ba cõi
sáng soi vầng bạch nhật,
Dẫu vô
cùng vẫn được hưởng vinh quang.
Lời cầu
xin mong thấu cõi u huyền,
Lòng thành
kính ngửa nhờ ơn chiếu giám.
Phục duy,
Thượng hưởng”
Từ
khi đền Tây Sơn lập lại, năm năm đều tế lễ. Lễ Đống Đa thay thế lễ Xuân Thu. Lễ
húy nhật vẫn giữ y như cũ. Và tuy đời đổi mới, lễ vẫn cử hành theo lề lối xưa.
Nhưng lần lần, người đọc văn tế có tài qua đời hết, và cứ đọc đi đọc lại mãi
một bài nghe cũng chán, nên cứ vài ba năm, thay văn tế một lần, không thiếu
những điểm quan trọng, nhưng gọn gàng dễ đọc.
Có
hai bài thường được dùng đến:
Văn Tế lễ Đống Đa:
“Non Tây
áo vải,
Trời Việt
khí thiêng;
Ngọn cờ
đào gió thuận lòng dân,
Mối ly
loạn dẹp yên dòng Trịnh Nguyễn;
Thanh kiếm
báu chớp ngời thế trận,
Đường xâm
lăng quét sạch giặc Xiêm, Hoa.
Đài vinh
quang rạng rỡ giống nòi,
Nền độc
lập vững bền đất nước.
Mây áng
Trường Sơn rồng dẫu khuất,
Trăng lồng
Quế Hải gấm còn giăng.
Đền ghi ân
ngào ngạt nén tâm hương, đá tạo nghìn thu vững núi;
Bút chép
sử ung dung ngòi chính luận, son pha từng nét đơm bồng.
Nay chúng tôi:
Đón tiết
dương xuân,
Nhớ ngày
kỷ niệm.
Ngửa dâng
lễ bạc,
Cúi trải
niềm son.
Mơ màng
trận thắng Đống Đa, hồn chiến sĩ thơm lây chiều gió mới;
Lai láng
dòng trong Côn Thủy, gương anh hùng sáng dọi ánh trăng xưa.
Nén tinh
thành mong thấu cõi u linh,
Cơ huyền
diệu sớm xoay thời thịnh thái.
Giống Hồng
Lạc đơm hoa kết trái, sương nắng chung, mưa móc cùng chung.
Tình Bắc
Nam líp thịt liền xương, dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Linh
thiêng xin chứng”.
Bài Văn tế ngày kỵ 15 tháng 11:
“Tây lĩnh
tài cao,
Côn giang
đức cả.
Giận
Trịnh, Nguyễn cắt tình đất nước,
Thêm Phúc
Loan đọa kiếp giống dòng.
Tuốt gươm
thần phạt ngụy điếu dân, danh Tam Kiệt nước non lừng lẫy sấm.
Thu mối
nước bình Nam định Bắc, công nghìn thu sử sách rõ ràng son.
Nay chúng tôi:
Đối cảnh
đông thiên.
Niệm kỳ
húy nhật,
Ngọn gió
hương đưa hồn Tổ Quốc,
Đầu non
thông vút khí anh hùng.
Rượu ba
tuần rót chén tinh thành.
Lễ bốn lạy
dâng trời dị lộ,
Phảng phất
đài mây điện ráng, ngưỡng vọng giáng lâm,
Chít chiu
con lạc cháu Hồng, huệ diên phước tải
Thượng hưởng”
Những bài văn ký đã nói lên được trung thực lòng người yêu
nước đối với nhà Tây Sơn.
Nhưng
trong đó lòng chỉ dám biểu lộ sau khi nhà Nguyễn đã bị nhân dân đứng lên lật
đổ.
Dám
biểu lộ trong lúc ách cường quyền còn đè nặng trên cổ nhân dân, thì long kính
yêu nhớ tiếc mới thật là mạnh liệt. Nguyễn Bá Huân viết: Cân Quắc anh hùng
truyện, Tây Sơn văn thần liệt truyện, Nguyễn Trọng Trì viết: Tây Sơn danh tướng
chinh Nam truyện, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện v.v...
Các
tác phẩm trên ghi chép sự tích, hành trạng của các anh hùng hào kiệt văn võ phò
tá nhà Tây Sơn. Sách viết thời Tự Đức. Dụng ý đề cao nhà Tây Sơn.
Không
phải là “danh sơn sự nghiệp” mà sách được phổ biến trong giới trí thức đương
thời, trong đó có một đại thần nhà Nguyễn là Đào Tấn ở Vĩnh Thạnh.
Điều
đó chứng minh rằng lòng người dân yêu nước đối với nhà Tây Sơn “dâu bể đổi,
ruột gan chẳng đổi”.
Đến
năm 1975, Bắc Nam thống nhất, đền Tây Sơn ngót 15 năm thuộc quyền quản trị của
nhân dân Bình Khê, giao lại cho Nhà nước cách mạng. Đền được mở rộng thêm, và
mỗi năm lễ Đống Đa vẫn được tổ chức trọng thể.
THAY LỜI KẾT
Nhà
Tây Sơn
Khởi
nghĩa năm Tân Mão (1771).
Lấy
thành Quy Nhơn làm căn cứ chiến đấu năm Quý Tỵ (1773).
Lên
làm vua:
+
Thái Đức từ Mậu Tuất đến Quý Sửu (1778-1793)
+
Quang Trung từ Mậu Thân đến Nhâm Tý (1788-1792)
+
Cảnh Thịnh từ Quý Sửu đến Nhâm Tuất (1793-1802)
Trong
24 năm (1778-1802), nhà Tây Sơn phải đánh Nam dẹp Bắc, không mấy lúc rảnh việc
chiến tranh, nên chưa làm được việc lớn lao về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị.
Sau
khi bị diệt vong, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn đời này sang đời khác gần 150 năm
(1802-1945) ra sức phá hủy không còn một dấu tích gì trên lãnh thổ Việt Nam!
Đi
ngang qua di chỉ nhà Tây Sơn, một nhân sĩ Bình Định là Nguyễn Trọng Trì có bài
thơ Cảm Hoài:
Loạn thế anh hùng sản xuất đa
Bắc Nam dược mã dự huy qua
Thập niên huyết chiến thành hà sự
Không thích ngư tiều túy tửu ca.
Bài
thơ viết vào khoảng Đồng Khánh, Thành Thái (1885-1907) triều nhà Nguyễn, cho
nên đậm nét bi quan. Chớ sao lại “không nên việc gì”. Bởi “việc gì” đó há phải
là những cái tồn tại trên mặt đất, mà chính những cái còn mãi mãi trong lòng
người Việt Nam, trong văn chương Việt Nam.
Ngót
150 năm, nhà Nguyễn cố làm cho người người
quên nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn
luôn nhớ đến nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về nhà
Tây Sơn.
Và
tiếng “Anh hùng áo vải”, “Anh hùng dân tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi
mạnh mẽ, trên đất nước Việt Nam, từ Nam chí Bắc.
Còn
nhà Nguyễn đã làm được gì?
Có
người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam.
Đó
là quên rằng chính nhà Tây Sơn đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh
chiếm trên tay Đông Định Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm nhà
Nguyễn còn để lại tiếng “Rước voi, cõng rắn”.
Trăm năm bia đá thời mòn
Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
_______________________________________________________________________________
[1] Câu
này thường nghe hát ở nhiều nơi rằng:
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển hồ lai láng mặc tài cá đua.
Câu này có tánh cách phổ thông. Câu kia,
màu sắc địa phương đằm thắm. Đá Hàng là phụ lưu của sông Côn, chạy từ Nam ra
Bắc, ở giữa làng Trinh Tường và Phú Phong. Từ chỗ giao thủy Đá Hàng và sông Côn
thì sông chia làm hai chảy xuống phía đông, một gọi là sông Trước chảy sát địa
phận làng Phú Phong, Xuân Hòa, một gọi là sông Sau chảy xuyên qua Phú Lạc, Kiên
Mỹ, Thuận Nghĩa. Nơi sông Sau từ Phú Lạc xuống Kiên Mỹ nước rất sâu, khoảng đó
gọi là Hàng Thuyền. Trên bờ có miễu, miễu ấy là miễu của làng Phú Lạc lập để
thờ ba anh em nhà Tây Sơn. Có người lầm tưởng trong miễu này để sắc thần làng
Kiên Mỹ. Sự thật thì sắc thần để tại nhà viên thủ chỉ. Còn miễu thờ thần ở phía
sau đình Kiên Mỹ.