PHẬN MỆNH SÁCH VỞ
VIẾT VỀ NHÀ TÂY SƠN
VIẾT VỀ NHÀ TÂY SƠN
Bà
thân tôi thuộc sử Tây Sơn như các nhà Nho thuộc sử Hán, Đường.
Đó
là nhờ trong Từ đường họ Quách có hai bộ sử chép tay về nhà Tây Sơn, Tây Sơn Dã
sử và Tây Sơn Liệt truyện.
Hai
bộ sách này là sách cấm. Lúc ông nội tôi còn sống thì ông giữ. Trừ ông thân bà
thân và các bác tôi ra, không ai được mượn đọc. Ông nội tôi qua đời, sách vở
đều dồn về Từ đường. Hai bộ sử ấy cũng được ông bác ở Từ đường là bác Quách Lý
Đạo cất giấu cẩn thận.
Khoảng
đầu thập niên 1920, sợ sách để lâu ngày bị mối mọt, bác tôi đem tất cả sách
treo trên các giá trong nhà lẫm ra phơi. Tình cờ một ông khách đến chơi. Ông
khách là người quen tên Mạc Viên tục gọi là Xã Suyền ở thôn Kiên Mỹ. Từ đường
họ Quách ở Thuận Nghĩa nằm về phía đông Kiên Mỹ, cho nên Xã Suyền cùng bác tôi
thường qua lại với nhau. Thấy bác tôi đương trở sách, Xã Suyền bèn giúp tay.
Trông thấy hai bộ sử Tây Sơn, Xã Suyền hỏi mượn. Bác tôi tìm lời thoái thác. Xã
Suyền giận dữ nói:
-
Đồ hung của dữ đó quý báu gì mà làm bộ!
Đoạn
bỏ ra về.
Mấy
hôm sau viên tri huyện Bình Khê là Hoàng Yến cỡi ngựa xuống Từ đường họ Quách,
1 tên lính đánh trống cán đi trước, 1 tên lính nữa cầm hèo tua theo sau. Không
biết việc gì mà quan đến nhà, bác tôi hết sức lo sợ. Quan vào nhà, đãi trà không
uống, đãi rượu không uống, nghiêm nghị nói:
-
Nhà ông có hai bộ sử Tây Sơn, tôi muốn mượn xem ít hôm có được chăng?
Bác
tôi rụng rời chân tay! Đứng sững không mở miệng được! Quan thét:
-
Sao không đáp? Vào lấy ra đây. Mau!
Như
một cái máy, bác tôi vào lấy hai bộ sách ra, hai tay dâng lên, cả mình run lẩy
bẩy, áo ướt đầm mồ hôi. Hoàng Yến lấy sách, không nói không rằng, bước lên ngựa
ra về, trống cán đi trước, hèo tua theo sau, thái độ hách dịch.
Lúc
bấy giờ ông thân tôi làm việc ở hãng dệt Délignon ở Phú Phong. Bác tôi liền đến
cầu cứu. Qua thái độ và hành động của viên tri huyện, ông thân tôi đoán biết
rằng y viên chỉ muốn làm tiền chớ không cố ý làm hại. Sau khi thảo luận cùng
bác tôi, nên “lấy của che thân”, bác tôi liền đi nhờ tay “chuyên môn” lo thu xếp
công việc.
Quan
đòi 2 cây bạc, tức 100 đồng bạc Đông Dương.
Bác
tôi phải bán ruộng..., việc mới yên.
Năm
1947, tôi gặp ông Hoàng Yến trong một cuộc hội nghị Liên Hiệp Quốc Dân tại Bình
Khê. Tôi có hỏi thăm về hai bộ sử ấy. Ông đáp:
-
Lâu quá ai nhớ được. Mà giữ làm gì những thứ sách ấy.
Hoàng
Yến là một người có học, bên chữ Hán đậu Phó Bảng, bên chữ Pháp đậu bằng Cao
đẳng Tiểu học (Primaire supérieur), mà không biết quý sách, đối với tôi thật là
một điều bất ngờ! Cũng may không phải là người Bình Định.
Trong
thập niên 1960, sau ngày Đền Tây Sơn được nhân dân Bình Khê xây cất xong, Hồ
Hữu Tường ra dự lễ lạc thành, có tìm được một bộ Tây Sơn Dã Sử ở Cây Da Tuy
Phước. Tôi nghe nói, muốn tìm họ Hồ để xem thử phải bộ sách của Từ đường họ
Quách chăng, nhưng chưa có dịp. Không biết bộ sách ấy hiện nay có còn chăng và
nằm vào tay ai.
Ngoài
hai bộ Tây Sơn Dã Sử, Tây Sơn Liệt Truyện, khuyết danh tác giả, Bình Định còn
có:
-
Cân Quắc Anh Hùng truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.
-
Tây Sơn Văn Thần truyện của cụ Nguyễn Bá Huân.
-
Tây Sơn Lương Tướng truyện của cụ Nguyễn Trọng Trì.
-
Tây Sơn Danh Tướng Chinh Nam truyện của cụ Nguyễn Trọng Trì.
-
Ngụy Triều Chư Tướng truyện của cụ Nguyễn Khuê.
Các
tác giả đều là người trong một nhà ở Vân Sơn huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cụ Nguyễn
Khuê đậu ba khoa tú tài thời Minh Mạng, Thiệu Trị, hay chữ nổi tiếng. Cụ Nguyễn
Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì là con, đều học cụ mà thi đậu Cử nhân dưới triều Tự
Đức.
Cụ
Tú Khuê soạn Ngụy Triều Chư Tướng truyện, cụ Nguyễn Trọng Trì (tục gọi là cụ
Nghè Trì, vì cụ có làm việc ở nội các cuối triều Tự Đức) bảo: “Tây Sơn há phải
là ngụy triều hay sao?”. Bởi thế cụ mới soạn tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại
Truyện, chép kỹ hành trạng các tướng tài đã giúp nhà Tây Sơn dựng nghiệp.
Còn
Cân Quắc Anh Hùng Truyện và Tây Sơn Danh Tướng Chinh Nam của cụ Huân và cụ Trì
ghi chép sự tích Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng. Hai tập ấy bổ
khuyết tập Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện vì trong tập này không nói đến
chiến công của ba tướng họ Bùi, họ Trần, họ Võ.
Những
bộ sách nói trên, sau khi các tác giả qua đời, đều giao cho bà Tú Năm con gái
cụ Nghè Nguyễn Trọng Trì, làm dâu nhà họ Đào ở Phú Phong (Bình Khê) giữ. Nhưng
thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ở Phú Phong thường bị tản cư vì giặc ở
An Khê thường xuống phá rối, bà Tú bèn đem về Vân Sơn những bộ sử ấy và hơn 100
vở tuồng hát bội do cụ Nghè sưu tầm có, do cụ sáng tác có, giao lại cho người
con trai cụ Nghè là ông Tám Chu (em ruột bà Tú) để tránh nạn binh hỏa. Ai
ngờ...! Lúc bấy giờ đương lúc khan giấy hút thuốc, ông Tám Chu, người vô học,
lần lượt xé quấn thuốc và bán cho người quấn thuốc sạch trơn! Tránh lửa binh
gặp lửa thuốc! Lửa tàn bạo cũng như lửa ngu dốt đều là “con cháu” của lửa Tần.
Nhưng
văn chương chưa đến nỗi vô mệnh: Gần đây có người tìm thấy tại nhà của võ sư Hồ
Ngạnh - một tay vô địch về roi ở Bình Khê, sau khi họ Hồ tạ thế - một hòm sách
chữ Hán, trong đó có một số sách của họ Nguyễn Vân Sơn, như Tây Sơn Văn Thần
truyện, Tây Sơn Lương Tướng truyện... Song sách vừa “bước chân” đến Quy Nhơn
liền gặp rủi, phải trở vào “danh sơn” để đợi người tri kỷ.
Hùng
khí Tây Sơn vẫn còn.
Mùa hoa sen Ất Sửu (1985)
QUÁCH TẤN
______________________________________________________________
Kỳ Đồng 14-8-84
Mới cách đây 4-5 ngày, tôi nhận được tập Nhà Tây Sơn, trên
10 bài H.P.N.H, 1 bức thư chung cho tôi và Giản Chi với một bức thư riêng cho
G.C.... Xin thưa anh rõ kẻo anh mong:
Tôi ở đây đã tháng rưỡi, uống thuốc Tây thuốc Bắc mà không
thấy khá: Cứ trị được chứng này nó lại sanh chứng khác, ngủ kém, ngại vận động,
cứ suốt ngày nằm dài, phải tạ khách vì nói chuyện lâu thì mệt... Không biết tôi
còn phải trị bao lâu nữa.
Nhà tôi thì cũng phải đi Y Dược Học Dân Tộc để họ trị cho
chứng huyết áp cao... Nhà thì không có ai mà hai vợ chồng đồng đau, thật lúng
túng...
Đau thì đau, tôi cũng ráng đọc cho hết - nếu không thì không
yên lòng - những tập của anh.
Về những bài H.P.N.H. tôi chẳng thêm ý gì cả.
Về tập Tây Sơn, tôi có đánh dấu bằng viết chì những chỗ đánh
máy lầm, sót, chép lầm chữ Hán, và những chữ sai chính tả.
Ngoài ra tôi góp ý với anh mấy điểm này:
Bài tựa anh vẫn giữ trọn những ý của anh, nhưng để cậu Giao
viết, ký tên thì hơn.
2. Có nhiều bản đồ vẽ sông mà không đề tên. Ví dụ huyện Tuy
Viễn, sông Côn, mà tôi không kiếm ra được sông Côn.
3. Trước khi Nguyễn Nhạc ra quân có bài Cáo với quốc dân
hoặc bài hịch kể tội chúa Nguyễn không? Bài đó nhờ ông giáo Hiến làm cho được
mà.
4. Cần giải thích một số chữ thổ âm như Thao Càn chẳng hạn.
5. Hai bài văn tế dài quá rồi, không cần chép thêm hai bài
ngắn nữa.
6. Trang cuối, chê nhà Nguyễn đúng đấy, nhưng nên nương tay
với họ một chút, đừng đạp thêm nữa, vì ở trên đã đập họ nhiều quá rồi.
Tập Tây Sơn này viết kỹ lắm, nhất là:
- Nguồn gốc Tây Sơn - Chương 1
- Anh hùng nghĩa sĩ phò tá Tây Sơn - Chương 4
- Cảnh nứt rạn trong nhà Tây Sơn viết rất rõ - Chương 10
- Quang Trung đại phá quân Thanh đọc thấy hồi hộp và khoái -
Chương 13
- Trần Quang Diệu đánh thành Bình Định - Chương 20
- Lòng dân đối với nhà Tây Sơn - Chương cuối
Một đặc điểm nữa là có nhiều bản đồ. Người viết có flamme.
Cảm tưởng của tôi là họ Quách ở Bình Định gần được như họ Tô
ở Tứ Xuyên (Trung Hoa). Họ Tô có 4 người nổi tiếng: Cha, 2 con trai và 1 con
gái (Tiểu Muội). Họ Quách cũng có 4 nhà văn, nhà thơ: Anh, ông Tạo, cậu Giao và
cháu Mộng Hoa. Một nhà 4 người có văn tài, hiếm đấy.
Mừng rằng cậu Giao hoàn thành một tác phẩm có giá trị. Chỉ
buồn một nỗi là bao giờ mới in được. còn 4-5 tập nữ chứ?...
NGUYỄN
HIẾN LÊ
(Thư gửi Quách Tấn, Quách Giao trích lục)
____________________________________________
CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC
NHÀ TÂY SƠN
Hơn mười năm nay, từ ngày tuổi lên trên “nhân sinh thất
thập”, tôi thường buâng khuâng lo nghĩ đến lịch sử nhà Tây Sơn.
Tôi sanh trưởng trên đất Tây Sơn.
Từ lúc thiếu niên, tôi đã từng được nghe tiên nghiêm và các
vị phụ lão có uy danh tỉnh Bình Định cho nghe, một cách tỷ mỷ sự tích nhà Tây
Sơn, hành trạng các anh hùng nghĩa sĩ của tỉnh nhà ra phò tá ba vị anh hùng họ
Nguyễn. Có nhiều sự kiện không thấy các quyển sử hành thế ghi chép, hoặc có ghi
chép mà ghi chép trái ngược. Các cụ thường phàn nàn về việc thiếu sót và sai
lạc này, song không đủ điều kiện để bổ khuyết, đính chính bằng bút mực. Tôi
cũng thế. Người trước đã qua, lớp người trên 70 tuổi cũng lần lượt ra đi kẻ sau
người trước. Một khi đã ra đi hết, thì những điều được cha ông truyền lại cũng
sẽ tiêu tan lần lần. Lớp thanh niên hậu học, muốn tìm, tìm đâu ra?
Vì vậy mà tôi đâm lo ngại, lắm đêm không ngủ được.
May sao cháu tôi Quách Giao, đã đỡ được gánh nặng cho lòng
tôi.
Đọc đi đọc lại tập nhà Tây Sơn của cháu, tôi hết sức vui
mừng!
Những sự kiện chính xác có sẵn trong các lịch sử thông dụng
xưa nay, đã được cháu Giao thuật lại minh bạch.
Những câu chuyện truyền khẩu, những đức tính tài năng, hành
trạng của các vị anh hùng nghĩa sĩ phò tá nhà Tây Sơn đều được ghi chép kỹ
lưỡng. Phối kiểm với những điều tôi đã được nghe, tôi nhận thấy không có gì để
thêm hay bớt, hay sửa chữa.
Để xác minh một lần nữa, tôi đã đi đến các huyện trong tỉnh,
nhưng không tìm thêm được gì khác nữa, chỉ biết được rằng một số nhân vật đời
Tây Sơn vẫn còn hậu duệ:
- Họ Võ ở Phú Phong, Bình Khê, tức xã Bình Phú huyện Tây Sơn
ngày nay, còn Võ Cán, Võ Thừa Khuông, Võ Thừa Ân ở Phú Mỹ.
- Họ Bùi ở Xuân Hòa (Bình Khê, Tây Sơn) còn Bùi Gia Tưởng,
Bùi Thúc Đình.
- Họ Đặng ở Dõng Hòa (Bình Thành, Tây Sơn) còn Đặng Phu,
Đặng Mân.
- Họ Đinh ở Bình Nghi (Tây Sơn) còn Đinh Hiên.
- Họ Lê ở Kiên Dõng (Bình Thành, Tây Sơn) trước kia có người
cháu 3 đời của tướng Lê Hưng, tục gọi là Ông Dẻo. Ông Dẻo võ giỏi, sức mạnh phi
thường. Xuống thành Bình Định thi võ, 2 tay xách 2 quả tạ, đi quanh thành 3
vòng, rồi ném hai quả tạ tới ngoài mức định đến hàng trăm thước. Nhưng thi mới
nửa chừng cáo bệnh bỏ cuộc. Đến đời ông Dẻo thì họ Lê đã dời nhà xuống Kiên
Ngãi cách Kiên Dõng 1 thôn, thôn Kiên Luông. Nhà nghèo, ông Dẻo làm nghề đốn
củi, chẻ hom, đương thúng rổ mướn cho các nhà giàu có ở các làng lân cận. Những
khi vót nan chẻ hom, ông Dẻo cặp nách một tảng đá xanh vừa dài vừa rộng, đặt
dưới bóng cây để ngồi làm việc và để nằm nghỉ ngơi. Cả đời không trọng vọng ai
mà cũng không xem thường ai. Với ai cũng nói cười vui vẻ. Ông có người cháu nội
tên Tấn, không biết võ nhưng sức khỏe không kém ông. Ông Tấn rất ghét trộm. Hễ
nghe ở đâu la “ăn trộm” thì ông liền xách gậy chạy đến tiếp ứng. Kẻ trộm rất
căm. Một đêm tối trời, nghe làng bên cạnh hô hoán, ông Tấn vội chạy tới thì bị
mươi người vây đánh chí tử. Từ ấy mang bệnh thổ huyết mà chết. Nếu ông còn sống
đến nay thì tuổi chừng trên trăm. Hiện nay không còn con cháu.
Đó là những nhân vật ở Bình Khê.
Còn các vị ở các huyện khác như:
- Ngô Văn Sở ở Bình Thạnh, huyện Tuy Phước, hiện còn Ngô Văn
Liêm.
- Đặng Văn Long ở Cây Da (Tuy Phước) còn Đặng Hiếu Khân,
Đặng Hiếu Trưng.
- Nguyễn Văn Lộc ở Kỳ Sơn không biết có phải là tiền hiền
của họ Nguyễn ở Phụng Sơn chăng, vì chưa được xem gia phả.
- Trần Quang Diệu ở Hoài Ân hiện còn phần mộ của các bậc
tiền bối, nhưng không còn con cháu, hay là còn mà con cháu không biết đến ông
tổ cao đời.
- La Xuân Kiều ở Phù Cát chỉ còn để lại bài thơ Vịnh Hòn
Trâu Nằm ở ngoài cửa Phù Ly.
Các nhân vật khác ở trong tỉnh Bình Định và ở các tỉnh bạn,
tôi không tìm được, không biết đâu tìm ra con cháu.
Con cháu của các anh hùng hào kiệt nhà Tây Sơn hiện còn và
tôi được biết, không có gì đặc biệt đáng ghi.
Vì nạn trả thù cho chín đời của Gia Long mà những ngoại
truyện, dã sử về nhà Tây Sơn, những gia phả của các họ có liên quan đến nhà Tây
Sơn đều bị tiêu hủy. Những mồ mả thoát khỏi họa quật phá hầu hết đã thành mả
hoang, vì con cháu hoặc bỏ làng đi lánh nạn phương xa, hoặc sợ liên lụy không
dám nhìn nhận, lâu ngày trở thành mồ vô chủ, không còn biết là của ai.
Do đó muốn tìm bằng chứng cụ thể cho lời xưa còn truyền lại,
thật là thiên nan vạn nan!
Những người “bóng xế ngàn dâu” chúng tôi, nghe truyền sao,
truyền lại vậy. Cháu Quách Giao đã ghi chép trung thực mọi chi tiết cần thiết.
Cháu lại ra công nghiên cứu thêm những tài liệu đã thu thập được để vừa chứng
minh vừa phong phú cho những gì cháu đã nghe truyền lại, kể thật là công phu.
Tập văn này biết đâu lại chẳng giúp cho các nhà sử học chuyên môn, khám phá
thêm những điều mới mẻ, chính xác, để bổ sung, hiệu đính cho những quyển sử đã
lưu hành về nhà Tây Sơn.
Viết tại thôn Phú Hiệp, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn
Mùa thu năm Giáp Tý (tháng 8 năm 1984)
NGUYỄN
ĐỒNG
(Quách Giao sao lục)
_____________________________________________
Khánh Hội, ngày 14-9-1984
Kính gởi anh Quách Trường Xuyên,
Thư 23-8-84 (mang tay) của Anh, tôi đã nhận được, với đầu đủ
những chương bổ sung H.P.N.H (II). Xin báo tin để Anh mừng, tôi đọc “hôm đực,
hôm cái”, nhưng cũng đã xong tất cả những gì Anh gởi cho tôi, qua Lộc Đình lần
trước, và cụ Đồng hôm qua...
Lộc Đình đọc Nhà Tây Sơn của Q.G. rất kỹ, không sót chữ nào,
những lỗi chính tả đều được đánh dấu ở ngoài lề hết. Duy phần chữ Hán thì tôi
phải sửa thêm. Có bài thơ viết sai cả mười mấy chữ, - những chữ tôi còn ngờ
chưa kể, nay mai tôi sẽ “relever” những chữ lầm ấy (Việt và Hán) thành một bản
gởi ra Anh. Công việc này mất vài ngày, chứ không hơn, nhưng xin cho đợi hứng.
Nhà Tây Sơn của Quách Giao có giá trị lớn. Nhiều chi tiết
mới về dòng dõi anh em Vua Quang Trung. Các tướng tá giúp vị anh hùng này cũng
được truyền thần một cách hết sức linh động. Nguyên nhân “bất hòa” giữa Vua
Thái Đức và Bắc Bình Vương xem ra hữu lý hơn nguyên nhân đã được ghi trong
“chính sử”. Điều đáng chú ý nhất là ngọn bút của nhà chép sử trẻ này dạt dào
nhiệt tình, đã gây được cảm xúc mạnh nơi người đọc, làm cho người đọc yêu mặn
nồng hơn mà ghét cũng ghét cay ghét đắng hơn: Yêu những khí phách hào hùng,
những tấm lòng thẳng ngay, chung thủy..., ghét những thói gian ngoan, hèn nhát,
những hành động tàn bạo, khát máu, độc ác hơn cả giống sài lang. Tác giả thuật
sự cũng rất giỏi, khiến người đọc có lúc hồi hộp như đọc La Quán Trung hay Kim
Dung. Ngần ấy thiết tưởng đủ rồi, chả cần cầu viện đến văn phong tiểu thuyết
(bắt gặp trong một vài đoạn, tỉ như “Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bấy giờ vừa
bi vừa hùng - Đó là ngày 24 tháng 5 năm Tân Dậu (1801)... Bóng chiều tràn ngập
núi sông...”) vân vân...
Sau chuyện Sử, bây giờ xin trở lại chuyện Thơ.
Đọc những công trình biên khảo về Thơ của Anh, thứ nhất là
Thơ Đường và Hứng Phấn Nâng Hương (I và II), tôi thật thán phục anh về công phu
thi học và về thái độ cẩn nghiêm của Anh trong việc áp dụng Niêm luật thơ
Đường. Đến khi đọc chương 41/A, tôi cũng thán phục ngọn bút phê bình thơ Đường
rất tinh tế của anh Quách Trường Sa. Tôi e rằng người mới học Thơ, có thể đọc
các anh rồi, đâm hoảng, không dám “dấn thân” nữa...
GIẢN CHI
(Quách Giao trích sao)
______________________________________
Hà Nôi, 23-8-1984
Kính gởi anh chị,
Bạn của cháu Ngọc đã mang đến tập Nhà Tây Sơn của Giao viết
và các bài viết lại Hứng Phấn Nâng Hương, đúng như trong thư anh ghi rõ. Tôi đã
đóng những trang mới ấy thay vào các trang cũ.
Những bài mới, những trang mới viết lại, rõ ràng hơn hẳn và
có giá trị tư liệu cũng như văn học cao.
Tập Nhà Tây Sơn viết rất hấp dẫn. Tôi mới đọc qua một lần,
thấy có một số chỗ cần trao đổi thêm. Có nhiều điểm rất cụ thể, nhận xét rất
chính xác, như vấn đề bất hòa giữa N. Nhạc, N. Huệ, nguyên nhân..., có những
việc rất lý thú, rất đau xót, nhất là cuộc đời Diệu, Xuân, Dũng, Long... v.v...
Tôi chưa có thể viết lời góp ý ngay, mà cần phải đọc lại
bằng lý trí (vì nay mới đọc bằng tình cảm) nhưng có hai vấn đề cần gợi ý trước:
1. Đúng như anh nói trong bài giới thiệu: “Tập này không thể
gọi là một quyền lịch sử vì tài liệu một số lớn chưa được phối kiểm một cách
chặt chẽ”. Đó là khoa học. Tuy nhiên nó lại bao gồm rất nhiều tư liệu chính xác
mà “chính sử” không biết hoặc không nêu, hoặc xuyên tạc, hoặc nhầm lẫn. Nó
chính xác hơn vì nó được bảo tàng trong ký ức của nhân dân địa phương, nó còn
dấu vết tại địa phương. Vì vậy tôi đề nghị anh nên nói rõ hơn trong Tựa, đính
chính sai lầm của sách cũ, cũng như các suy đoán theo định kiến của các nhà sử
mới.
2. Nói về Nhà Tây Sơn mà rất ít nói những tình cảm Tây Sơn
để lại, trong nhân dân địa phương cho đến nay, là một điều thiếu sót. Hình như
không phải chỉ Kiên Mỹ thờ ba Vua mà ngay cả ở Vân Tường cũng có việc làm lễ
hàng năm.
Cần hỏi lại anh Đồng xem có biết được bài văn tế mà lý
trưởng Kiên Mỹ, đời này sang đời khác, truyền khẩu bí mật cho nhau để đọc khi
tế ba Vua. Bài văn tế ấy cho đến đời Xã Suyền chết 1947 mang theo xuống trình
Quang Trung. Được bài văn ấy là một cống hiến lớn cho lịch sử.
Việc 2 cây Ké, Cầy treo cờ làm lễ xuất quân ở chân đèo An
Khê được nhân dân gìn giữ làm vật lưu niệm, mãi đến thời Mỹ mới bị ngụy chặt
phá..., cũng đẹp và có ích.
Văn của Giao viết giản dị mà hấp dẫn, rành rọt. Có một số
địa danh, sự việc cần được bàn kỹ lại.
Lý Tài, Tập Đình là hai tên tướng giặc Tàu Ô về giúp Tây
Sơn, có đóng quân tại Phú Yên, nơi đến nay vẫn còn dấu: Núi Trại Khách ở Đồng
Xuân. Ở đó cũng lưu lại một câu hát đưa em:
- Gió đưa ông đội về Tàu
Bà đội ở lại xuống bàu bắt cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về ông đội khỏi mua tốn tiền.
Đó là sau khi hai tướng tàu bỏ trốn về Hải Nam, vợ me Tàu bỏ
lại bị nhân dân chế giễu...
QUÁCH TẠO
(Quách Giao trích sao)