TÂY SƠN VƯƠNG SỬA THÀNH ĐỒ BÀN VÀ
XƯNG ĐẾ HIỆU
Thanh
toán xong Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung Nguyễn Phúc Dương thì mặt
Nam gọi là tạm yên.
Còn
mặt Bắc.
Tháng
chạp năm Ất Mùi (1775) Hoàng Ngũ Phúc đóng tại Châu Ổ (Quảng Nam), được chúa
Trịnh cho rút về Thuận Hóa. Đến Phú Xuân thì chết, Chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt
vào thay và cho Lê Quý Đôn làm Tham Thị vào cùng giữ Thuận Hóa.
Từ
ấy Quảng Nam thuộc về Tây Sơn.
Hai
cựu thần của nhà Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân nổi dậy chống Tây
Sơn, đánh lấy phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn.
Tây
Sơn Vương liền sai Đặng Xuân Phong đi đánh dẹp.
Đặng
Xuân Phong nguyên là người Dõng Hòa thuộc Tây Sơn Hạ (Bình Khê), sức mạnh võ
giỏi lại có tài cưỡi ngựa bắn cung, nhưng tánh ưa nhàn tản, nên không hưởng ứng
lời chiêu mộ của Tây Sơn Vương.
Một
hôm nữ tướng Bùi Thị Xuân đứng ở trường trầu Kiên Mỹ, chợt thấy một tráng sĩ
trẻ tuổi cầm côn đồng, mang cung sắt, cỡi ngựa ô, từ Thuận Nghĩa chạy lên Phúc
Lạc[1],
thái độ hiên ngang nhưng tướng mạo trung hậu. Nữ tướng lấy làm lạ, theo dò xem.
Đến Trưng Sơn, tráng sĩ cho ngựa lên núi. Đường núi gập ghềnh mà ngựa chạy như
nơi bình địa. Ngựa chạy quanh quất hồi lâu rồi mới dừng lại nơi khoanh đất bằng
và rộng nằm ở lưng chừng núi. Chợt một bầy quạ bay ngang, tráng sĩ liền trương
cung bắn liên tiếp hai phát: hai con quạ rơi xuống như hai quả chín cây. Rồi
tráng sĩ xuống tháo cương cho ngựa đi ăn. Đoạn xăn tay múa côn. Tiếng gió vun
vút. Khí lạnh ớn người. Diễn liên tiếp mấy bài mà khí sắc không đổi. Tráng sĩ
lên núi lúc mới tảng sáng. Mặt trời lên quá sào thì thắng ngựa trở về.
Nữ
tướng khen thầm:
Thật
là một dũng sĩ !
Và
tự trách:
Anh
tài ở trước mặt mà bấy lâu mình có mắt cũng như không!
Dò
biết được lai lịch của tráng sĩ Đặng Xuân Phong và Trưng Sơn là nơi tráng sĩ
thường đến tập luyện, nữ tướng liền về chiến khu, rồi cùng Đại Tổng Lý Vũ Đình
Tú xuống Dõng Hòa mời họ Đặng tham gia đại sự. “Lạ gì thanh khí lẽ hằng”. Không
đợi thuyết phục, họ Đặng hưởng ứng ngay lời mời của họ Võ họ Bùi.
Đặng
Xuân Phong liền được tiến cử lên Vua Tây Sơn, và được đi đánh dẹp Quảng Nam để
lập công.
Không
phải dùng nhiều công sức, Đặng Xuân Phong mới xáp chiến trận đầu là lấy ngay
được Thăng Bình rồi Điện Bàn. Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân đều tử trận.
Quảng Nam được dẹp yên, Tây Sơn Vương gọi
Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nghĩa về Qui Nhơn cử Đặng Xuân Phong thay thế, và cử
nguyễn Văn Tuyết[2] ra
trấn thủ Quảng Nam, cùng họ Đặng làm răng môi giữ gìn mặt Bắc.
Bắc
Nam được yên ổn, Tây Sơn Vương đổi thành Minh Đức Vương và cho sửa lại thành
Qui Nhơn[3].
Thành
Qui Nhơn tức là thành Đồ Bàn cũ của Chiêm Thành.
Thành
nằm trên dãy gò sỏi thuộc hai thôn Nam An và Bắc Thuận thuộc huyện Tuy Viễn
(tức An Nhơn ngày nay). Địa thế rất lợi về mặt chiến thủ.
Thành
do Vua Chiêm Thành là Xá Lợi Đà Bàn Ngô Nhật Hoan (Indravarman IV) xây vào thế
kỷ thứ X. Tường bằng gạch và đá ong. Mặt hướng vào Nam, chu vi hơn 10 dặm, có
bốn cửa. Bên ngoài có dãy Kim Sơn che phía tây, có núi Long Cốt làm tiền án và
gò Thâp Tháp yểm hậu. Bốn nhánh sông Côn hội nước ở Lý Nhơn, tạo thành cái thế
nước chảy bao quanh, nhờ thế mà hào thành không bao giờ khô cạn. Ngoài xa nữa,
khắp bốn mặt lại có núi non trùng điệp, biển nước mênh mông, triều ủng. Như
phía Bắc có các núi Sa Lung, Cung Quăng, Thạch Đê... làm bình phong ngăn từ xa,
và núi Phú Cũ, Hải Lương (tức Đèo Nhông), Ô Phi làm bình phong thứ hai ở mặt
Bắc. Phía Nam có trấn sơn Phước An và An Tượng cùng nhiều núi nối tiếp rất hiểm
trở. Phía Tây có núi Hương Sơn với ba ngọn tháp nơi gò Dương Long rất tráng lệ.
Phía đông có đầm Hải hạc chu vi trên 9.000 trượng, với núi Tháp Thầy, Bãi Nhạn,
Gành Hổ, rừng Hoàng Giản có thể đồn binh ngăn giặc. Và đầm Thị Nại với dãy núi
Triều Châu, một dãy cát trắng vun cao chất ngất, thỉnh thoảng nhô lên những
ngọn núi đá, chạy từ Cách Thử đến Phương Mai là mũi đá làm cánh cửa của biển
Thị Nại.
Nhờ
địa thế của thành Đồ Bàn mà Chiêm Thành đã ngăn chặn được ngoại bang vào xâm
nhập bờ cõi. Mãi đến thế kỷ thứ XV, năm Canh Thìn (1470) Vua Chiêm là Trà Toàn
gây sự, Vua Lê Thánh Tông mới cử binh vào đánh. Địa thế tuy hiểm, thành trì tuy
kiên cố, song nhuệ khí của quân Chiêm lúc bấy giờ đã nhụt, nên Vua Lê chỉ mấy
hôm công phá đã hạ được thành và bắt sống được Trà Toàn.
Vua
Lê Thánh Tông đổi tên Đồ Bàn thành Hoài Nhân.
Chúa
Nguyễn Hoàng đổi tên Hoài Nhân thành Quy Nhơn (1605).
Chúa
Nguyễn Phúc Tần đổi Quy Nhơn làm Quy Ninh (1651).
Chúa
Nguyễn Phúc Khoát lại lấy lại tên Quy Nhơn (1741).
Từ
1741 cho đến năm 1776 là năm tu bổ lại, tên thành không thay đổi.
Nhà
Tây Sơn cho mở rộng quy mô. Trước kia chu vi thành chỉ có 10 dặm. Nay mở thêm
mặt đông, chu vi nới rộng ra thành 15 dặm. Xây toàn đá ong, cao 1 trượng 4
thước và dày 2 trượng. Trước chỉ có 4 cửa. Nay mở thêm một cửa nơi mặt thành
phía nam, khoảng mới xây thêm, và gọi là Tân Môn. Còn cửa Nam Môn cũ gọi là Vệ
Môn. Trong thành đắp nhiều thổ môn đặt giàn súng, dùng làm đài quan sát và tự
vệ khi bị địch vây thành. Phía tây thành đắp để Đỉnh Nhĩ để ngăn nước lụt. Phía
tây nam đắp đàn Nam Giao để tế Trời Đất. Phía trong thành lại xây một lớp thành
nữa gọi là Càn Thành, chính giữa dựng điện bát giác là nơi Vua ngự. Phía sau
dựng điện Chánh Tẩm để Hoàng Hậu và cung nhân ở, phía trước dựng lầu Bát Giác,
bên tả bên hữu dựng hai tự đường, một thờ cha mẹ, một thờ cha mẹ vợ nhà vua.
Trước lầu bát giác có cung Quyển Bồng và liền với mặt nam Càn Thành, có cửa tam
quan gọi là Quyển Bồng Môn xây cổ lầu nên cũng gọi là Nam Môn Lâu. Trong thành,
ngoài thành, bài trí la liệt những voi đá, ngựa đá, nghé đá, tượng nhạc công,
vũ nữ... di tích của người Chiêm Thành xưa kia.
Thành
sửa từ 1776 đến 1778 mới hoàn tất. Tráng lệ nguy nga.
Thành
Quy Nhơn sửa xong, nhà vua xưng đế hiệu Minh Đức Hoàng Đế, niên hiệu Thái Đức.
Thành
Quy Nhơn đổi tên là Hoàng Đế Thành.
Nhà
vua rước thầy học Trương Văn Hiến về làm quân sư.
Và
phong:
-
Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng quân.
-
Nguyễn Lữ là Tiết Chế.
-
Phan Văn Lân làm Nội Hầu.
-
Trần Quang Diệu làm Thiếu Phó.
-
Võ Văn Dũng làm Đại Tư Khấu.
-
Võ Đình Tú làm Thái Uy.
-
Ngô Văn Sở làm Đại Tư Mã.
Các
tướng khác đều phong Đô Đốc và Đại Đô Đốc.
Còn
bên văn thì phong Võ Xuân Hoài làm Trung Thư Lệnh. Các quan khác đều sắp xếp từ
Thị Lang, Thượng Thư đến Đại Học Sĩ.
Bà
họ Trần được rước về Hoàng Đế Thành phong Chánh Cung Hoàng Hậu.
Bà
người Thượng được rước về phong Thứ Phi. Nhưng không chịu nổi cảnh phồn hoa náo
nhiệt và nghi lễ nơi cung cấm, bà xin trở về vui với ruộng lúa.
Bà
Bùi Thị Xuân được phong làm Đại Tướng Quân, tự hiệu là Tây Sơn nữ tướng, quản
đốc mọi việc quân dân trong Hoàng Thành và tuần sát vùng Tây Sơn.
Bok
Kiơm không nhận chức tước cũng không nhận tiền của, chỉ xin mỗi năm được nhà
vua cấp muối và cá khô để nuôi lòng trung thành của đồng bào Thượng.
Hai
Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ
nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với
Tây Sơn.
Nhà
vua cũng không quên họ Đinh ở Bằng Châu.
Truyền
rằng:
Họ
Đinh lúc bấy giờ chỉ còn một ông lão trên bảy mươi, tánh khí ngang tàng bướng
bỉnh. Vua vời ông lão đến, ông lão nói:
-
Ông làm vua là làm vua với thiên hạ, chớ với tôi ông vẫn là con cháu. Con cháu
mà ban chức tước cho cha ông, tôi thấy hơi nghịch. Chi bằng để tôi phê rồi ông
lục thì hơn.
Nhà
vua chuẩn y. Ông lão viết:
-
Bùng binh chi tướng.
-
Uýnh ướng chi quan.
-
Bộn bàng chi chức.
-
Chảng chảng ngãng thiên.
Rồi
mỗi lần ông lão đi thăm Vua Thái Đức, thì ngồi trên một cái ghế có bốn người
khiêng, hai bên có vài chục người cầm cào cỏ, cuốc chĩa, xuổng, cuốc... thay thế
cho cờ biển hèo tua... và hai cây dù tát nước che thế lọng. Phía sau phía trước
lại có hai đoàn người thổi kèn đánh trống bằng miệng. Tưng bừng rộn rịp. Thiên
hạ kéo ra xem đông và vui như hội.
Thăng
thưởng cho mọi người xong, nhớ đến Nhưng Huy và Tứ Linh, nhà vua bùi ngùi nói:
-
Huy, Linh công chưa được thưởng, tội đã bị trừng, đối với ta thật chẳng khác tự
mình cầm lấy đao xẻo miếng thịt hư nơi vai vế!
Ai
nấy đều cảm động. Long Nhương Tướng quân nói:
-
Làm việc lớn không nên bận đến điều nhân nghĩa nhỏ. Thà chịu cắn răng trong
chốc lát, còn hơn phải nhăn mặt suốt đời.
Rồi
cuộc vui mở khắp nơi.
Đồng
bào vô cùng hoan hỷ.
Sau
mười ngày yến tiệc, Vua Thái Đức lo chỉnh đốn việc dân việc quân.
Thời
chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đến Cà Mau, đất chia làm 12 dinh:
Chính
dinh, Cựu dinh, Quảng Bình dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính dinh, Quảng Nam dinh, Phú
Yên dinh, Bình Khang dinh, Bình Thuận dinh, Trấn Biên dinh, Phiên Trấn dinh,
Long Hồ dinh.
Dinh
chia ra phủ, phủ chia ra huyện.
Quy
Nhơn, Quảng Nghĩa thuộc Quảng Nam dinh.
Gia
Định gồm các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ.
Gia
Định ở xa, nhà vua giao quyền cai trị cho cựu thần nhà Nguyễn đã quy thuận, để
lo cho được chu đáo phần đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
Nhà
vua bỏ dinh, chỉ để phủ, huyện. Từ Bắc đến Nam có sáu phủ:
Quảng
Nam, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận.
Huyện
ở dưới quyền phủ. Trừ phủ Quy Nhơn, ba huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn trực
thuộc trung ương.
Danh
hiệu Tuần Phủ đổi là An Phủ Sứ, Phòng Ngự Sứ, An Phủ cầm đầu phủ lớn. Phòng ngự
coi giữ phủ nhỏ[4].
Quân
số lúc bấy giờ phỏng chừng 15 vạn (150.000)
Theo
binh chế đời nhà Chu, binh chia làm 6 cấp: Quân, Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ. Ngũ
gồm có 5 người. Lượng gồm có 5 ngũ tức 25 người. Tốt gồm có 4 lượng tức 100
người. Lữ gồm có 5 tốt, tức 500 người. Sư gồm có 5 lữ, tức 2.500 người. Quân gồm
có 5 sư, tức 12.500 người.
Tổng
số là 12 quân đoàn, có bộ binh và thủy binh.
Binh
chủng nào cũng tinh nhuệ.
Đặt
biệt nhất là:
-
2 quân đoàn người Thượng, với 2.000 chiến mã.
-
4 lữ đoàn nữ binh, với 100 thớt voi.
Hai
quân đoàn người Thượng do Long Nhương Tướng Quân Nguyễn Huệ tổ chức và thường
do Long Nhương chỉ huy.
Người
nào cũng cao lớn, gan dạ. Tay cầm mác hay cầm ná, lưng giắt dao bảy. Phóng mác
trăm phát trăm trúng, bắn ná không cần nhắm cũng trúng đích. Lại có tài cỡi
ngựa. Ngựa đang chạy, lên lưng một cách nhẹ nhàng gọn gàng, ngựa đang sải, nhảy
xuống ngựa cũng gọn gàng lẹ làng không kém. Ra trận chỉ biết tới chớ không biết
lui.
Họ
hết lòng trung thành với chủ tướng. Đó là vì chẳng những chủ tướng tài cao,
lượng rộng, đối với họ hết nghĩa hết tình, mà còn vì tin chắc rằng chủ tướng là
người của Trời sai xuống điều khiển họ.
Không
phải họ tin mù quáng, mà chính mắt họ cũng thấy rõ ràng.
Khi
cùng Võ Đình Tú quản lý Tây Sơn, nguyễn Huệ thường đi chiêu mộ binh Thượng. Một
hôm, trời vừa hửng sáng, đám tân binh đi đến chân đèo An Khê, thì trong sương
mờ, xa xa thấy hai con rắn mun cực kỳ to lớn. Không ai dám đi tới.
Nguyễn
Huệ chắp tay khấn:
-
Nếu quỷ thần có phù hộ tôi để tôi dựng nên nghiệp lớn thì xin tránh đường cho
tôi đi. Bằng không thì cắn chết tôi chớ đừng làm hại những người theo tôi.
Khấn
rồi đi tới. Hai rắn cuối xuống ngậm một thanh đao, cán đen như mun, lưỡi sáng
như nước, kính cẩn dâng cho Nguyễn Huệ rồi bò vào bụi biến mất. Đám tân binh
liền quỳ xuống tung hô Nguyễn Huệ là “Tướng nhà trời”.
Thanh
đao đó Nguyễn Huệ gọi là Ô Long Đao và thường dùng lúc ra trận.
Và
để nhớ ơn quỷ thần tặng đao, một ngôi miếu dựng nơi chân đèo An Khê, tục gọi là
Miếu Xà. Người qua lại thường thắp hương cúng[5].
Còn
4 lữ đoàn nữ binh thì do nữ tướng Bùi Thị Xuân và bà họ Trần vợ tướng Nguyễn
Văn Tuyết tổ chức và điều khiển.
Bà
họ Trần, song kiếm tuyệt luân, côn quyền cũng xuất chúng. Ngày ngày lo huấn
luyện nữ binh. Giảng dạy rất kỹ, thưởng phạt rất nghiêm. Võ nghệ của chị em ai
nấy đều tinh luyện. Đứng xa nhìn chị em tập thì chẳng khác nhìn cánh đồng hoa
trước gió nồm. Nhưng nếu bước đến gần thì sát khí đằng đằng đến lạnh mình dựng
tóc.
Còn
voi thì do bà Bùi huấn luyện.
Voi,
phần của bà mua, phần do người Thượng tặng bà, phần là chiến lợi phẩm, cống
phẩm... Bà thường dùng dãy gò ở Xuân Hòa, quê hương bà, để luyện voi[6].
Voi
đã được tập luyện thuần thục thì không cần người quản tượng. Voi mới thì mỗi
thớt phải có một nữ binh cỡi khi tập.
Để
điều khiển voi, bà thường dùng ngọn cờ đỏ. Khi bà chưa ra diễn trường, thì voi
đi đứng lộn xộn. Ra diễn trường, bà phất ngọn cờ thì con voi đầu đàn vội đến
đứng nghiêm chỉnh trước mặt bà. Bà lẹ làng nhảy lên voi, vỗ nhẹ đầu voi. Voi
cong vòi rống lên một tiếng. Tất cả đàn voi răm rắp đến sắp hàng ngay ngắn
trước đầu voi đầu đàn. Rồi theo hiệu cờ, tới lui, rẽ bên nam, sang bên bắc, khi
chậm khi mau, nhịp nhàng đều đặn.
Ban
đầu phải tập từng thớt một.
Sau
mới tập từng đoàn.
Khi
tập từng đoàn, thì nữ quản tượng nào đi kèm theo voi nấy. Hàng ngũ sắp chỉnh tề
rồi. Nữ tướng phất cờ hiệu, tất cả nữ quản tượng nhảy lên voi một lượt, gọn và
nhanh như người kỵ mã có tài nhảy lên lưng ngựa. Rồi theo hiệu cờ mà tập...
Thân vóc voi ngó nặng nề, mà bước chân voi trông lẹ làng lanh lẹ. Khí thế hùng
dũng như gió cuốn sóng dồn, nhưng diễn trường im phăng phắc, khách bàng quan
không nghe tiếng, chỉ thấy hình, những hình sống động vừa mạnh mẽ vừa đẹp đẽ,
nửa cổ kính nửa tân kỳ... Tập xong, theo hiệu cờ, đoàn nữ quản tượng nhảy xuống
voi cũng lẹ làng nhịp nhàng, với những nụ cười đắc ý.
Voi
được luyện kỹ càng rồi mới đưa xuống Hoàng Đế Thành. Ai điều khiển cũng được.
Quân
số cần phải gia tăng mới đánh Nam dẹp Bắc.
Nhưng
lính phải mộ chớ không bắt.
Và
những lính cũ bị đau yếu được cho về nhà hoặc đưa lên các trại sản xuất để điều
dưỡng nghỉ ngơi cho đến khi mạnh. Những nông dân ở các trại đã được huấn luyện
quân sự rồi thì nhập ngũ để thay những người đi nghỉ, hoặc để thêm vào số quân
đương cần.
Vì
chế độ rộng rãi nên quân số gia tăng một cách mau chóng.
Nhà
vua còn cho mở nhiều xưởng đóng chiến thuyền và xây nhiều lò đúc vũ khí. Có hai
xưởng đóng thuyền lớn nhất, một ở Phương Mai thuộc Quy Nhơn, một ở Nha Trang
thuộc Diên Khánh[7]. Và
lò đúc lớn nhất ở Quang Hiển thuộc Tuy Phước, dưới chân hòn Bà. Ở các cửa sông
lớn và nơi núi non hiểm trở đều có đồn kiên cố. Ở Phương Mai lại có xây pháo
đài để canh giữ cửa bể Thị Nại[8].
Việc
chiêu mộ hào kiệt vẫn tiếp tục.
Kẻ
sĩ bốn phương lần lượt đến phò tá. Văn thì có một nhân vật xuất sắc:
Lê
Văn Nhân, tự Nghĩa Tiên, người An Nhơn, học rộng, thơ hay lại sở trường về văn
tứ lục. Ở nhà, hễ ai cầu thơ văn thì đem giống hoa thơm và cây ăn trái đến làm
nhuận bút. Do đó người đương thời gọi vườn của ông là “Chủng tự lâm” tức là
“Rừng trồng chữ”. Vì là người địa phương nên được bổ ngay làm Tri huyện Tuy
Viễn. Làm quan thanh liêm, chuộng phong tiết, giàu phong lực, đầy phong nhã[9].
Người đời xưng tụng là Tam Phong thái thú”.
Bên
võ, siêu quần thì có:
Nguyễn
Quang Huy, người Phú Yên, thiện dụng ngân câu (móc câu bạc), ưa cỡi bạch mã. Đã
có sức mạnh, lại giỏi võ nghệ, thông binh pháp. Vua Thái Đức rất ái trọng,
phong làm Phòng Ngự Sứ vào trấn Bình Thuận.
Lúc
bấy giờ, Vua Thái Đức đã 35, 36 tuổi. Nhà vua có hai người con gái đã đến tuổi
lấy chồng và một trai là Nguyễn Bảo mới lên ba.
Trong
các tướng tài, Vũ Văn Nhậm là người chưa vợ, nhà vua bèn đem con gái lớn gả
cho. Còn người con gái thứ nhì gả cho người con trai của thầy học là Trương Văn
Đa, tuổi mới trên hai mươi mà văn võ đã xuất chúng. Nhà vua cho ở luôn trong
cung với ý định sẽ nhờ dạy dỗ Nguyễn Bảo.
Nơi
triều đường, trong cung cấm cũng như ngoài nhân gian, đâu đó đều thuận thỏa yên
vui. Mùa màng lại được. Người Kinh bắt chước người Thượng gọi Thái Đức Hoàng Đế
là Vua Trời (Thiên Vương).
[1] Phú Lạc, Kiên Mỹ, Thuận Nghĩa, Dõng Hòa, từ tây xuống đông,
thôn này giáp thôn nọ, thuộc về Tây Sơn Hạ (trước là huyện Tuy Viễn chia ba -
Bình Khê - An Nhơn, Tuy Phước - thì Tây Sơn Hạ thuộc về Bình Khê).
[2] Trong sách của cụ Bùi Văn Lang chép là Nguyễn Văn Duệ.
[3] Việt Nam lược sử của Trần Trọng Kim chép là “Tây Sơn
Vương”. Sách Tây Sơn của Bùi Văn Lang chép là “Minh Đức chúa công”
[4] Vua Thái Đức dựa theo quan chế nhà Trần. Nhưng đời Trần, An
Phủ Sứ thuộc văn giai ngoại chức. Phòng Ngự Sứ thuộc về võ giai ngoại chức. Đời
Tây Sơn không phân biệt văn võ, mà phân biệt phủ lớn phủ nhỏ.
[5] Miếu được luôn luôn tu bổ nên mãi trước năm 1945 vẫn còn.
Hành khách đến miếu thường xuống xe đốt hương.
[7] Tại núi Phương Mai còn di tích.
Ở Diên Khánh, xưởng cất ở dưới chân núi địa đầu thành phố Nha Trang.
Núi ấy có xưởng đóng thuyền ở dưới chân nên gọi là Núi Xưởng. Sau đó Trần Quang
Diệu cất trại thủy binh trên núi để chặn binh Nguyễn Phúc Ánh nên núi lại mang
tên là núi Trại thủy.
[8] Lò đúc Quang Hiển hiện nay vẫn còn di tích.
Nông dân địa phương thường đào được gang, quặng
sắt, đồng vụn... để đúc súng đánh Pháp.
[9] Thượng phong tiết, đa phong lực, nhiêu phong nhã. Ông là
tác giả bộ “Trần Triều Thông Sử Cương Mục” soạn năm Quang Trung thứ tư.