Sài Gòn 03-4-68
Kính gửi Thi sĩ Quách Tấn
Thưa ông,
Bốn bữa trước, tôi vừa đọc xong Nước Non
Bình Định, đã đánh dấu mấy chỗ, tính sẽ giới thiệu với độc giả, thì nhận được
sách và thư của ông. Quý nhất là giọng trong thư: tôi chưa được gặp ông mà giọng
ông tự nhiên, thân mật như biết nhau đã lâu. Cuốn ông cho, tôi sẽ giữ, còn cuốn
trước, tôi sẽ gởi cho một đứa cháu ở xa.
Hôm nay bài giới thiệu đã viết xong; Tạp
chí lúc này ra không đều, chưa biết bao lâu nữa mới đăng được. Tôi xin ghi sơ
các ý chính lại dưới đây:
Phần Núi Non ông viết rất kỹ, tôi theo
dõi từng bước, rất mong được thấy Mạ thiên sơn và núi Xương cá.
Cảnh Hầm Hô, Giếng Tiên, chùa Linh Phong
ông tả khéo, tôi chắc nhiều ngườI sẽ mê.
Mươi trang lịch sử của ông gọn mà đủ; rải
rác trong sách có nhiều cố sự, truyền thuyết và rất nhiều thơ.
Tài liệu rất phong phú, văn tao nhã mà tấm
lòng với quê hương thì thật đẹp.
Trong đoạn kết, có mấy hàng này tôi xin
chép để ông coi trước:
“Tôi nghĩ dù không có tập Mùa Cổ Điển và
tập Mộng Ngân Sơn, một tập chứa nhiều bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt rất hay mà sau
này ai cũng muốn làm tiếp công việc phê bình của Hoài Thanh tất phải nhắc tới,
dù không có hai tập đó đi nữa thì nội công phu viết địa phương chí cho Bình Định,
thi sĩ cũng xứng đáng là người con của Bình Định rồi.
(…)
Tấm
lòng của ông với quê hương thật là đẹp. Quê hương lẽ nào không quý tác phẩm của
ông?
Nhưng còn một cái vui mà trong bài thơ
tôi không muốn chép ra, để riêng kể với ông, là cái vui khi đọc trang 95 tôi được
vào hàng “tri kỷ” của hoa xoài như ông vậy. Từ trước tôi vẫn khen một cây xoài
khi nở rộ coi như mâm xôi đậu, mùi hoa của nó ngọt ngọt, chua chua, vì ngọt mà
chua nên ngọt mát, nay đọc văn của ông tôi như thấy ông ngồi trước mặt mà cùng
cười với tôi.
Ông đã được nếm trà cam khổ chưa? Sao mà
quý thế! Ước gì bình an trở lại, tôi có được thăm cảnh để nhắm cho biết cái
hương vị.
Chớ ông giải thích chữ Côn trong Sông
Côn (trong III) làm cho tôi mỉm cười. Phải ông muốn lập ngôn đấy không? Phải vậy
thì cũng là một cái thú của người cầm viết, mà người đọc đoán được thì cũng thú
như người viết nữa.
Tôi cũng có điều buồn: điện vua Quang
Trung chỉ như một nhà làng trong Nam này thôi. Hết chiến tranh, quốc
dân rồi có xây một công trình gì để ghi ơn, xứng đáng với vị anh hùng đó không.
- Hàn Mặc Tử thật may mà có mộ đẹp như vậy trong một cảnh đẹp như vậy. Nhưng
còn ba danh sĩ khác? Mộ Tản Đà nay còn cái nấm không?
Đó là ít cảm tưởng của tôi. Tôi
mong được đọc tiếp Nhân vật Bình Định.
Sách tôi in chẳng có cuốn nào đẹp, mà
cũng không biết có cuốn nào ông thích, nên từ trước vẫn do dự, nay thấy ông có
giọng thân mật, xin gửi tặng ông cuốn mới nhất của tôi do nhà Tao Đàn xuất bản
– nó chẳng hay gì nhưng cũng chứa một tấm lòng với tiếng mẹ đẻ.
Kính chúc ông vạn an và mau cho ra được
mấy tác phẩm tiếp.
TB: Tôi không ngờ rằng Bình Định có
chà là. Phải datte không?
-o0o-
Nha Trang, Rằm tháng 3 Mậu Thân
(12-4-68)
Kính gửi ông Nguyễn Hiến Lê
Thưa ông,
Nhận được thư ông và tập Xây Dựng Văn
Hóa, sáng hôm nay, lòng tôi vui sướng cực độ. Vui sướng nhất là được cùng ông
“thưởng thức hương vị hoa xoài” và được ông “đồng ý” về tánh chất nước sông
Côn.
Thú vị quá!
Vạn cảm. Vạn cảm.
Rồi mở đọc Xây Dựng Văn Hóa, lòng thích
thú tràn trề! Tôi có cảm giác tôi đương đọc tôi, nhất là phần nguyên tắc…(cá
tính, dân tộc tính…). Tôi chợt nghĩ dại: ”Phải chi trước đây tác giả sống ở Bình
Định để cùng mình đi an trí cho vui”. Tôi nghĩ vậy là vì có những tư tưởng những
quan niệm giống ông mà thời kháng chiến chống Pháp ở Bình Định tôi luôn luôn bị
lao đao!
Lâu nay tôi thấy tôi cô độc.
Đọc ông tôi thấy ấm áp quá chừng!
Thật là vui mà cũng thật thích
thú!
Khi lòng hoan lạc không ưng nằm nhà, mặc
dù sách mới xem có 2/3 quyển. Thấy trời chiều nắng dịu, tôi bèn gấp sách, đi
lang thang…Tình cờ gặp ông Võ Mỹ là người ở gần nơi sản xuẩt trà Cam Khổ. Võ Mỹ
cho biết thứ trà ấy không trồng được, chết lần hết. Lâu nay bom đạn ở Hoài Ân lại
nổ liên miên, không biết những gốc còn sống mấy năm trên, lúc này có còn xanh tốt
chăng. Tôi hy vọng rằng giống quý, trờI không ghét. Và nếu vật còn thì không
bao giờ phụ lòng tri kỷ.
Tôi mới nghe nói chớ chưa được nếm. Vì khi nhỏ nghe ông nội tôi và ông
thân tôi nói chuyện, rồi để bụng. Lớn lên đi làm ăn xa… Đến lúc trở lại tỉnh
nhà thì binh lửa liên tiếp…, không còn bụng dạ nghĩ đến “nếm thử”. Nay ông ước
có ”dăm cánh” tôi cảm động quá …và mong sao sẽ có ngày được cùng ông thưởng thức
hương vị trà Cam Khổ tỉnh nhà.
Còn chà là ở Bình Định là chà là núi. Cây, lá, buồng giống như chà là
Tàu, song không cao lớn bằng.Trái lại nhỏ chỉ bằng ngón tay út và đen nhánh như
hạt huyền chớ không phải màu nâu nâu như chà là Tàu. Mùi thơm vị thanh hơn chà
là Tàu.
Nói đến chà là Bình Định và chà là Tàu, tôi liên tưởng đến các nhà nho
phong lưu thanh nhã và các ông phú thương Trung Hoa núng na núng nính ở Chợ Lớn.
Tôi ước ao tình thế chóng ổn định để mờI ông cùng anh Đông Hồ, anh Lãng
Nhân đi chơi Bình Định một chuyến.
Ông nhắc đến Tản Đà lòng tôi bùi ngùi!
Buổi sinh tiền tiên sinh nói cùng Nguyễn Tuân làm sao khi tạ thế, được nằm
nơi núi Hàm Rồng nhìn xuống cầu sắt. Trong một bức thư gởi cho tôi vào khoảng
1959 – 40 tiên sinh cũng có nói đến lòng
ao ước ấy.
Năm 1941, Nguyễn Tiến Lãng ngồi ghế án sát Khánh Hòa, tôi có đưa thư cho
xem. Họ Nguyễn khấn: ”Nếu được ra làm quan ở Thanh Hóa thì nguyện thực hiện cho
kỳ được lòng ước muốn của tiên sinh”.
Năm 1944, họ Nguyễn được đổi ra làm bố chánh Thanh Hóa.Tôi có viết thư
nhắc. Nguyễn quân đáp rằng ”không dám quên và xin cố gắng”. Nhưng rồi quốc biến
liên tiếp…Mấy mươi năm nay, mỗi lần nghĩ đến nơi an nghỉ nghìn thu của tiên
sinh là mỗI lần tôi tủi:
Hàm Rồng nắm cỏ chưa tròn mộng
Khê Thượng nguồn thơ mãi quặn
tình.
(Nhớ Tản Đà - Mùa Cổ Điển)
Tản Đà - tiên sinh ước nằm ở Hàm Rồng,
Hàn Mặc Tử ước nằm ở Đèo Son (Qui Nhơn).
Cùng gia đình Tử, tôi đã đưa di cốt bạn về được Gành Ráng (gần Đèo Son),
cảnh lại đẹp hơn Đèo Son, lòng tôi yên vui về phần bạn. Còn phần thầy không biết
kiếp này có lo xong? Lắm lúc thật là buồn.
Còn về phần Tây Sơn: đó là sự cố gắng vượt bậc của một số nhân sỹ Bình
Khê. Chánh quyền không giúp đỡ mảy may! Thế mà Ngô Đình Diệm khi ra thăm Bình Định
lại còn tỏ ý bất bình viên quận trưởng sao lại để cho xây cất!
Đồng thời cùng đền Tây Sơn, anh em Bình Khê xây được lăng anh hùng Mai
Xuân Thưởng.
Hai công tác đáng lẽ chánh quyền Bình Định phải đảm đương lấy song cũng
như đền Tây Sơn, lăng Mai anh hùng cũng chỉ là một nhóm người lo liệu.
Tôi là người địa phương nhưng ở xa và nghèo, không góp công góp của được,
nên lãnh viết hai bài bi ký và bốn bài văn (có trong N.N Bình Định) để tỏ lòng
sùng bái tiền nhân.
Đó là lối đơn thành của người Bình Khê. Nghe đâu chánh quyền Bình Định định
đúc tượng vua Quang Trung tại Quy Nhơn.Tin đồn đã ba năm nay, mà mãi chưa thấy
gì hết. Lúc này việc gì không có lợi trước mắt và sờ mó được thì ít ai muốn
làm. Nên tượng vua Quang Trung chắc còn lâu mới có.
Hôm Tết tôi về Bình Định định tìm thêm tài liệu để viết quyển nhân vật
Bình Định nhưng gặp binh biến đầu xuân, đành phải chờ đợi ”hòa bình trở lại”.
Tôi ở nơi cô lậu, thiếu bạn thiếu sách, nên việc sáng tác thật khó khăn.
Không nỡ để thì giờ trôi xuôi, tôi bày ra viết hồi ký.
Những sách của ông, tôi chỉ đọc được bộ Văn học sử Trung Quốc và tập Sống
Đẹp. Tôi mến phục ông từ khi đọc Văn
học sử Trung Quốc. Lúc Phạm Công Thiện còn ở Nha Trang (1958-64) tôi cùng
Thiện thường nói về ông. Và mới đây vào Sài Gòn, gặp Đông Hồ, tôi cũng có hỏi
thăm và nghe ông được bình yên, tôi mừng.
Tôi có quan niệm rằng con người
viết văn làm thơ, trước khi chấm bút vào mực, phải chấm vào máu mình, thì lời
mình thốt ra mới có giá trị.
Thời tiền chiến tôi thấy có Hoài Thanh. Thời hậu chiến tôi thấy có ông.
Chắc còn nhiều người khác mà tôi không được biết vì trước kia cũng như
bây giờ tôi sống xa nơi văn vật quá.
Đọc thư ông và sách ông, cao hứng quá,
tôi viết lung tung từ lúc bên láng giềng mở đài B.B.C đến bây giờ súng giới
nghiêm đã báo hiệu.Tôi xin dừng bút và cầu chúc ông thâm tâm an lạc.
Tái bút:
-Xin gửi tặng ông Đôi Nét Về Tỉnh Khánh Hòa. Đó là một bài ”diễn thuyết” nói cho anh
chị em công chức nghe năm 1962.Tôi định viết kỹ lại khi có thì giờ.
-Nếu ông còn sẵn Cổ Văn
Trung Quốc xin gửi cho một tập. Xin cảm ơn trước.
-o0o-
Sài Gòn, ngày 22-4-68
Kính gởi ông QuáchTấn
Thưa ông,
Tôi cũng sẽ kể chuyện lung tung để ông đỡ
buồn đây,
Tôi nghĩ phong cảnh đẹp mà không có di
tích của danh nhân thì cũng không thú, vì trước cảnh mình không có lòng hoài cảm,
cảm xúc không đậm. Nước mình rất nhiều cảnh đẹp mà rất ít nơi có di tích, có
thì cũng không biết bảo tồn, không biết nhắc nhở cho du khách chú ý vào, nhất
là thiếu di tích của danh sĩ. Điều đó tôi rất hận; tới Hà Tiên mà không thấy di
tích của Chiêu Anh Các, cũng không có một tấm bia cho biết Chiêu Anh Các hồi
xưa ở đây, thì kém thú nhiều lắm.
Thư trước tôi nói chưa hết ý. Cái việc
ông xây mộ cho Hàn Mặc Tử, là việc tốt đối với bạn, mà cũng thật là tốt cho những
du khách sau này nữa. Đã trên 25 năm nay, có lần tôi ghé Qui Nhơn được nửa buổi,
chỉ vừa kịp lại Gành Ráng rồi trở về. Lần đó, tôi chỉ ngó qua nhà nghỉ mát của
Bảo Đại, không thấy có cảnh gì đẹp lắm. Lần sau có ra, tôi sẽ được ngắm thêm
ngôi mộ của Hàn Mặc Tử và cảm xúc của tôi tất nhiều hơn. Tôi nghĩ sau này, khi
nào ông qui tiên, cũng nằm nghỉ ở chỗ đó, để thêm hoài cảm cho du khách. Có lần
nói chuyện với Đông Hồ, ông ấy đã định rồi: núi Tô Châu ở Hà Tiên.
Trà Cam khổ khi nào bình an mà kiếm được,
nếu còn, thì xin ông cho mỗi bạn văn: Đông Hồ, Lãng Nhân, tôi... độ dăm cánh
thôi, đủ để biết hương vị. Có ít mới quí.
Tôi đã được ghé Nha Trang hai lần, mỗi lần
ở vài ba ngày chỉ được coi những cảnh trong thành phố, chưa ra ngoài. Có ra Hòn
Chồng. Nay đọc ba bài thơ ông chép lại, tưởng tượng mà thấy cảnh thú hơn, tiếc
rằng hồi đó chẳng biết có ba bài đó để mà ngâm trong khi nghe sóng vỗ.
Ông nên viết kỹ hơn mà cho đăng báo đi.
Từ 1962 đến nay mà Tòa Hành chánh Khánh Hòa vẫn chưa soạn xong Địa phương chí?
Chưa có địa phương chí thì họ cũng nên tạm in một tập Guide touristique giới
thiệu những thắng cảnh với du khách. Như Hòn Chồng, nên in cả ba bài thơ trên.
Vâng, bình an trở lại, nếu ông Đông Hồ,
ông Lãng Nhân và tôi mà cùng ra thăm được Bình Định thì thú lắm. Có ông ở Khánh
Hòa và Bình Định rồi. Sẽ kéo Võ Phiến ra Tourane
nữa. Để hôm nào gặp Đông Hồ tôi sẽ nói. Nhưng tôi sợ lúc yếu rồi, Đông Hồ và
tôi không đủ sức mà đi. Có Lãng Nhân là còn mạnh.
Hồi trẻ tôi có cái mộng đi hết con đường
quốc lộ từ Nam Quan tới Cà Mau, ghi chép thắng cảnh và di tích lịch sử mỗi nơi
rồi viết một cuốn tựa như Si Versailles
était conté của Sacha Guitry (tôi chưa được đọc, không biết có in thành
sách không, hay chỉ là phim). Công việc đó thích lắm, con đường đó là con đường
vinh quang của dân tộc, mà cũng là con đường đẹp nhất nữa. Bây giờ thì đành bỏ
mộng đó rồi, chỉ còn mong đọc địa phương chí của hết thảy các tỉnh trên đường
đó để mà tưởng tượng thôi. Huế mà tôi cũng chưa biết nữa, ông ạ. Vẫn cứ mong
bình an rồi mới đi (chứ đi bây giờ mà không dám ra xa châu thành thì chán lắm),
bây giờ chưa bình an thì Huế đã tan tành.
Trong 4 bài văn tế của ông ở cuối Nước
Non Bình Định, bài tế vua Quang Trung của ông hay nhất.
Xin gởi tặng ông Cổ văn Trung Quốc. Họ in xấu quá, nhưng thời này được họ in cho
cũng là may lắm rồi. Tôi không dám đòi hỏi gì nhà xuất bản, ngay cả nhà in nữa.
Cái gì cũng phải đợi hết chiến tranh đã. Nước
Non Bình Định chắc là bán chạy.
Ông bạn tôi, Giản Chi, đọc cũng thấy thú lắm.
Kính chúc ông vạn an.
-o0o-
Nha
Trang, ngày 15-5-68
Kính
gửi Ông Nguyễn Hiến Lê
Thưa
ông,
Nhận được
sách “Cổ Văn Trung Quốc” và đọc kỹ
“Cảm tưởng sau khi đọc Nước Non Bình Định”, xin cảm tạ thịnh tình.
Lần tái
bản, xin sửa chữa những chỗ sai sót theo lời chỉ giáo của quí bạn hảo tâm.
Nay để
tạ lòng tri âm, xin thưa qua về hát bội, nhạc võ và các môn võ Bình Định.
Trong
chương trình sáng tác, tôi đã ghi những vấn đề đó. Tôi định sau khi hoàn thành
“Nhân vật Bình Định” sẽ viết tiếp Võ Bình Định và Hát Bội Bình Định.
Nhạc võ
là một trong bốn môn võ sở trường của người Bình Định: côn, quyền, kiếm, cổ.
Nhạc võ
tức là cổ.
Kiếm cổ
rất thịnh thời Tây Sơn. Qua đời Nguyễn, 2 môn này suy. Môn cổ biến thành một
trò phụ trong những cuộc hát bội. Ngày xưa dùng trống chầu, sau vì không còn ai
luyện nổi (không dám luyện vì cấm) các bài võ để đủ sức đánh trống chầu, nên
phải dùng trống chiến.
Người
đánh trống phải giỏi võ và có sức mạnh. Có 8 bài võ về đánh trống như: tập hợp,
xuất phát, đăng hành, xuất trận, giáp chiến, truy kích thu binh, khải hoàn...
Vì
trống trận Tây Sơn bỏ nên các bài võ cũng ít người thuộc.
Những
tay võ nghệ có văn học, hiện nay đã qui tiên hết. Tôi đương lo không biết hỏi
ai để viết cho khỏi bị “họa hổ bất thành”.
Hát bội
cũng thế. Hiện chỉ còn một số bạn hát có tài nhưng ít học.
Trước
đây tôi “ỷ” có ông cậu là Đoàn Phong và ông bạn là Diệp Trường Phát tục gọi là
Tàu Sáu là hai tay “tổ võ” Bình Định, và ông bạn già là tú tài Lâm Thúc Mậu,
thầy trống siêu đẳng, thông thạo bài bản điệu bộ,,, như cổ nhân. Quý ông ấy mấy
năm nay rủ nhau về cõi âm hết... Tìm cho ra người đủ khả năng để thỉnh giáo thật
gay go... Chưa biết vua Quang Trung và cụ Đào Tấn có linh thiêng giúp tôi toại
nguyện hay chăng chẳng biết.
Trong Nước Non Bình Định in sai nhiều quá, tôi
chỉ đính chính một số ít thôi. Hòn Mò O tên là Mạ thiên sơn (núi Mắng Trời), họ
in lộn là Hạ.
Kính
chúc ông vạn an và mong chóng hòa bình để cùng nếm trà Cam
khổ.
-o0o-
Sài
Gòn, ngày 25-5-68
Kính
gởi ông Quách Tấn,
Thưa
ông,
Ông
thực nhã nhặn. Lỗi ở tôi đấy. Ông đã đính chính chữ Mạ thiên sơn rồi mà
tôi làm biếng, không dò bản đính chính. Tôi làm việc còn nhiều sơ sót quá. Bài
đó còn một lỗi in sai: trà cam phổ. Không nhớ là tại tôi sửa vội hay nhà
in bỏ sót.
Bình
Định nhiều điều đáng nói quá. Trong một cuốn không làm sao chép hết được. Nếu
ông có thì giờ nghiên cứu được môn võ và môn hát bội mà viết thành một tập
riêng thì càng quý, nếu không thì tôi nghĩ trong lần tái bản Nước Non Bình Định ông thêm vô vài trang
cho mỗi môn, tưởng cũng tạm đủ rồi.
Công
việc nhiều quá, một mình làm sao cho hết được, được tới đâu hay tới đó. Làm cho
quê hương được bấy nhiêu, nhiều đấy chứ. Còn thì nghỉ ngơi và làm thơ, chẳng ai
dám trách.
Kính
chúc ông vạn an. Không biết chúng mình còn chịu bao nhiêu cuộc tấn công nữa.
Cầu Trời cho tất cả các người quen biết đều vô sự cả.
-o0o-
Nha
Trang, Rằm tháng chín Mậu Thân (05-11-1968)
Kính
gởi Ông Nguyễn Hiến Lê.
Hôm nay
đương nằm nghĩ đến ông, anh Đông Hồ, anh Lãng Nhân thì được bức thư của Thi Vũ
ở Berlin gửi
về. Trong thư có một đoạn nói về Nước Non
Bình Định. Trong đoạn ấy có câu: “Bài của Nguyễn Hiến Lê viết rất nồng hậu
và chí tình. Em đọc và mừng khôn xiết. Đời bạc bẽo nhưng đây đó vẫn còn những
tâm hồn trinh nguyên”.
Tôi cảm
động, vội viết mấy hàng này gởi cho ông.
Hiện
theo lời khuyên của ông, tôi đương sửa lại “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa”. Đã viết
xong 2/3. Dày độ 2/3 Nước Non Bình Định. Nhà in Hoa Sen Nha
Trang nhận xuất bản.
Kính
chúc ông vạn an.
-o0o-
Sài
Gòn, ngày 16-11-1968
Kính
gởi ông Quách Tấn,
Viết
văn có hai cái thú: diễn được ý của mình và gặp được người đồng thanh hiểu được
lòng mình. Ngoài ra còn có gì nữa đâu. Tôi đã đọc cuốn Tiếng Kêu Trầm Thống của ông Thi Vũ, ông ấy nhiệt tình lắm, tâm hồn
đáng quý. Không biết bao giờ ông ấy mới về nước?
Nhà in
Hoa Sen cũng đáng mến nữa đấy. Tôi đã giới thiệu hai cuốn Địa phương chí đều
viết công phu, cho một nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn, họ từ chối cả hai. Không
phải họ sợ lỗ vốn đâu (họ không thiếu gì tiền, mà họ cũng đã xuất bản nhiều
cuốn rất khó bán); chỉ tại họ không thích loại đó thế thôi.
Lạ quá,
tại sao người ta không thích cái loại đó nhỉ? Ngay đến chính quyền cũng không
thích, ngay đến các nhà báo cũng ít ai chịu đọc. Quê hương mà họ không chịu tìm
hiểu thì họ tìm hiểu cái gì?
Tôi
nghe nói ông Nguyễn Đình Tư ở Nha Trang cũng đương cho in một cuốn về Khánh
Hòa. Vậy là qua 1969, tôi sẽ được đọc hai cuốn về Khánh Hòa. Cuốn của ông dày
như vậy thì cũng là khá đầy đủ, mà chắc chắn viết hay hơn. Tôi xin mừng ông.
Mấy
chục năm trước hồi mới đọc Thi Nhân Việt
Nam của Hoài Thanh, rồi đây mới đọc bài của Đông Hồ trong Bách Khoa, tôi
đều nghĩ rằng hai vị đó nghiêm quá, chứ
“Ô y hạng” chỉ là một lối mượn chữ - chứ không phải dùng sai điển – giá
viết văn xuôi, cho ba chữ đó vào một cặp ngoặc kép thì chẳng ai trách vào đâu
được cả; nhưng trong bài thơ, chẳng cần vậy (đặt vào ngoặc kép), thế thôi. Tôi
chẳng biết gì về cách thức luật lệ thơ, nghĩ vậy mà không biết đúng không.
Ông vẫn
mạnh đấy chứ? Kính chúc ông vui.
-o0o-