2. NGÔ CHI LAN



Người huyện Kim Hoa thuộc xứ Kinh Bắc (Phúc Yên) nội tướng của danh sĩ Phù Thúc Hoành người làng Phù Lỗ cùng huyện.
Bà có sắc, có tài văn chương, tiếng tăm lừng lẫy
Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) nghe danh, vời bà vào cung dạy các cung nữ. Mỗi khi yến tiệc, bà thường ôm giấy bút đứng hầu nhà vua. Hễ vua phán làm thơ, thì bà hạ bút là thành chương không cần phải sửa chữa.
Một hôm đi chơi núi Vệ Linh ở huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên, là nơi Phù Đổng Thiên Vương cỡi ngựa sắt về Trời, bà đề một tuyệt:
Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn
Vạn tử thiên hồng diệm thế gian
Thiết mã tai thiên danh tại sử
Anh uy lẫm lẫm mãn giang san.

Vệ Linh cây thẳm trải mây nhàn
Muôn tía nghìn hồng quán thế gian
Ngựa sắt về trời danh tạc sử
Hừng hừng uy đức nhẫy giang san.
Không mấy chốc bài thơ truyền khắp trong cung, nhà vua khen thưởng cho một tấm gấm.
Lại một hôm vua ngự nơi Thanh Dương môn, truyền quan Thị thư họ Nguyễn làm bài từ khúc Uyên Ương Khúc dâng lên, nhà vua không vừa ý ngoãnh lại bảo bà:
- Khanh thi tài vốn mẫn thiệp, thử vẩy bút xem sao.
Bà vâng mệnh, thảo một chương, câu cuối rằng:
Ngưng bích phi thành kim điện ngõa
Trừu hồng chức tựu cẩm giang la.
Nghĩa là:
Đọng biếc làm nên ngói điện vàng
Xe hồng dệt được là sông gấm
Nhà vua cả khen, thưởng cho 5 đỉnh huỳnh kim và ban cho hiệu Phù Gia Nữ Học Sĩ. Từ ấy danh lại càng hiển, khách tao đàn đều ngưỡng mộ tài hoa. Nhưng cũng có kẻ tiểu tâm làm thơ chế diễu như:
Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận
Ưng hoán Kim Hoa học sĩ lai
Nhà vua ý muốn khuây sầu muộn
Nên triệu Kim Hoa học sĩ vào
Lại như:
Yến bãi long lâu thi lực quyện
Lục canh lưu đãi hiểu miên trì.
Tiệc bãi lầu rồng thơ mỏi sức
Sáng ra còn đợi giấc nằm trưa
Bà không khỏi buồn tủi. Thi hào Thái Thuận, tác giả tập Lữ Đường, có lời khuyên giải:
- Nào phải một mình phu nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ xú ác. Gái trinh liệt xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước Ngân hà dễ gì khuấy cho nhơ. Nên chả cần bận tâm, giới ý.
Vua Lê Thánh Tông băng hà bà có bài thơ vãn:
Tam thập niên dư củng tử thần
Cửu châu tứ hải hựu đồng nhân
Đông tây địa thác dư đồ đại
Hoàng đế thiên khôi sự nghiệp tân
Tuyết ủng chân du vô xứ mịch
Hoa thôi thượng uyển vị thùy xuân
Dạ lai do tác quân thiều mộng
Trướng vọng Kiều Sơn lụy mãn cân.
Nghĩa là:
Ba chục năm dư ngự tử thần (1)
Chín châu bốn biển thảy nhờ ân
Dư đồ đất mở đông tây rộng
Đế nghiệp trời xây vững mới dần
Dấu dõi xe loan mờ mịt tuyết
Hoa đơm vườn ngự bẽ bàng xuân
Quân thiều vẳng tiếng đêm theo mộng (2)
Ngắm vọi Kiều Sơn lệ thấm khăn (3)
Vua Thánh Tông băng rồi, bà không còn ra vào cung cấm.
Bà mất năm ngoài 40 tuổi, an táng nơi bãi Tây Nguyên trong huyện Kim Hoa.
Tài cao học rộng, bình sanh bà sáng tác chắc phải nhiều. Song giai phẩm không phổ cập trong nhân gian, nên không thường nghe nhắc nhở.
Trong Văn Đàn Bảo Giám thấy có chép bốn bài thất ngôn tuyệt cú bằng quốc âm, vịnh cảnh tứ thời, ghi là của bà Ngô Chi Lan:
VỊNH XUÂN
Khí trời ấm áp đượm hơi dương
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng
Rèm liễu líu lo oanh hót gió
Giậu hoa phất phới bướm châm hương

VỊNH HẠ
Gió bay bông lựu đỏ tơi bời
Tựa gốc cây đu đứng nhởn chơi
Oanh nọ tiếc xuân còn vỗ cánh
Én kia nhớ cảnh cũng gào hơi

VỊNH THU
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.

VỊNH ĐÔNG
Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa
Gió phẩy màu băng giải mặt sông.
Không biết đó là tác giả đã tự dịch hay là người đời sau phiên dịch bốn đoạn đầu của bốn bài từ 8 câu bằng chữ Hán rất được truyền tụng của bà Ngô Chi Lan:
XUÂN TỪ
Sơ tịnh huân nhân thiên tợ túy
Diệm dương lâu đài phù noãn khí
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoan
Nhiễu lãm ba tu xuyên điệp thúy
Giai tiền hồng tuyến nhật thiêm trường
Phấn hạn vi vi tẩm lục thường
Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.
Nghĩa là:
Trời cao chếnh choáng hơi dương đượm
Rực rỡ lâu đài tia nắng nhuộm
Phất phơ rèm liễu quyến thoi oanh
Thấp thoáng giậu hoa dồi phấn bướm
Chỉ vàng óng ánh kéo ngày dài
Lụa đẫm mồ hôi hương láng lai
Trò nhỏ chẳng hay xuân tứ khổ
Giường thơ ghé mắt mỉm môi cười.

HẠ TỪ
Phong xuy lựu hoa hồng phiến phiến
Giai nhân nhàn đả thu tiên viện
Thương xuân bối lập nhất huỳnh oanh
Tích cảnh ai đề song tử yến
Đình châm vô ngữ thúy my đê
Quyện ỷ sa song mộng dục mê
Khước quải quyển liêm nhân hoán khởi
Hương hồn chung bất đáo Liêu Tề
Nghĩa là:
Gió đưa hoa lựu hồng phơi phới
Người đẹp bên đu xiêm dấp dới
Én tía thương xuân réo rắc kêu
Oanh vàng tiếc cảnh chần chờ đợi
Dừng kim lặng lẽ nhíu đôi mày
Buồn tựa song thưa mộng rắp say
Trách kẻ cuộn rèm kêu tỉnh dậy
Hồn hương chẳng kịp đến Liêu Tây

THU TỪ
Thanh thương phù không trừng tế cảnh
Sươn tín diêu tương cô nhạn ảnh
Thập trượng liên tàn Ngọc tỉnh hương
Tam canh phong lạc Ngô giang lãnh
Phi oanh dạ dạ bích lan can
Y bạc nan câm tiễn tiễn hàn
Thanh đoạn động tiêu ngưng lập cửu
Diêu đài hà xứ mích thanh loan
Nghĩa là:
Tầng xanh lơ lững gương trong vắt
Rải rác tin sương tình nhạn bắc
Giếng ngọc sen tàn hương vẩn vơ
Sông Ngô lá rụng canh hiu hắt
Lập lòe bóng đóm lọt qua mành
Lạnh thấm từng cơn áo mỏng manh
Tiếng vọng lầu tiêu nghe đã dứt
Nơi nao đài ngọc dấu loan xanh?

ĐÔNG TỪ
Bửu lư bát hỏa ngân bình tiểu
Nhất bôi La Phù phá thanh hiểu
Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm
Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu
Mỹ nhân kim trướng yểm lưu tô
Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ
Ám lý vãn hồi xuân thế giới
Nhất châu phương tín tiểu sơn cô.
Nghĩa là:
Lửa hồng lư nhuốm sang bình bạc
Chén rượu tiêu sầu hương bát ngát
Hơi lọt rèm sưa tuyết lạnh lùng
Gió đưa ao quạnh băng xao xác
Nhà vàng người ngọc trướng lưu tô
Cửa sổ phòng văn giấy đắp hồ
Xuân đã âm thầm xoay vận thắm
Tin mai non vắng một nhành phô
Không biết rõ thân thế của tác giả mà chỉ xem kỹ bốn bài từ vịnh tứ thời thì cũng thấy được tinh thần và cốt cách cao sang của vị nữ sỹ tài danh đất Kim Hoa ngày trước.
_________________________________________________________________________
(1)    Tử thần là ngôi vua
(2)    Quân thiều là khúc nhạc trên cung trời
(3)    Mộ vua Lê Thánh tông ở Kiều Sơn.