5. NGUYỄN THỊ NGỌC VINH



Người làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương (Bắc Việt) con gái Luân Quận Công, đã thông minh có học vấn được chúa Trịnh Doanh là Minh Đô vương (1740-1767) kén vào cung, sắc phong làm Vương phi.  Được chúa Minh Đô quí như vàng thường gọi là Minh Đô vương phi hay còn gọi là Đức Bà Vàng.
Vương phi thông chữ Hán lại giỏi quốc âm. Khách làng văn không mấy ai không biết tiếng.
Nhưng tác phẩm của Vương phi không phổ cập đến đại chúng nên sau khi nhà Trịnh bị diệt các tác phẩm của bà đều bị thất lạc.
Trong quyển Nữ Lưu Văn học sử của Sở Cuồng Lê Dư xuất bản năm 1929 thấy chép một bài thơ lục bát và một bài thơ Đường luật nhan đề là Tự Tình Vãn:
Trời cao muôn dặm thẳm xa
Quảng Hàn nỡ để Hằng Nga lạnh lùng (1)
Tưởng nguồn cơn khéo chạnh lòng
Trách duyên, dám trách cửu trùng thắm phai (2)
Vả tôi kém sắc phạp tài
Nhằm thương muôn đội lượng trời chở che
Xét mình bồ liễu le te
Dám rằng cù mộc dám khoe hảo cầu (3)
Phận thường mọn mảy nữ lưu
Muôn mong xét biết ái ưu ghi lòng
Sách vàng rờ rỡ đề phong (4)
Những mong xứng chỉ chút công báo đền
Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên
Gót đầu toàn bộ ơn trên tài bồi
Non ân bể đức bằng trời
Muôn phần báo đáp chưa vời một ly
Trộm xem trên cả nhân nghì
Vậy nên áy náy bắc chì mỉa mai
Tay đâu bưng được miệng ai
Nắng mưa cũng tiếng mỉa mai lọ là
Thấy chiều thưa nguyệt phai hoa
Thừa cơ dễ khiến dèm pha nhiều điều
Nghĩ rằng đức Thuấn nhân Nghiêu
Chở che chỉ có đăm chiêu giày vò
Chắc rằng sông núi hẹn hò
Hay đâu bể ái chút dò cũng hao
Đạo màu há dám rằng sao
Canh chầy vò võ lầu cao nguyệt tà
Tưởng khi cầm sắc khúc hòa
Trăm năm cù mộc một nhà trúc mai
Bây giờ  tin diễn vãng lai (5)
Cửa ngăn giây gió nguyệt cài then sương
Tưởng khi đầm ấm thiên hương
Ngửa trông một nghĩa để trông muôn đời
Bây giờ gần bén xa dời
Một lòng khôn thở nhiều lời nể nang
Tưởng khi lạm sánh nhà vàng
Nghìn năm để trách một trường áng xuân
Bây giờ cách diển ải Tần
Một bề trực đức chín lần khôn thâu
Càng phen càng bối rối sầu
Ngu trung dễ thấu nhiệm mầu thiên cơ
Cớ chi nên nỗi sinh cơ
Bâng khuâng lòng ước ngẫn ngơ dạ phiền
Vì con chồi quế non Yên (6)
Thì chi đến nỗi nhiều phen thế này
Nhởn nhơ song dạ khôn khuây
Buồn xem bế nữ nước mây thêm ngừng
Nhiều phen sấm chớp vang lừng
Bồ hòn đã đắng thì gừng lại cay
Nào khi giá ngự bình Tây
Cần lao dám ngại nước mây sương hàn
Dây êm gối biếng ngôi Càn (7)
Tấc gan nỡ để mấy ngàn riêng tây
Vụng lầm vả tiếng một ngày
Nỡ cho kẻ mọn sánh bầy rao ca
Quản bao phận tiện dã hoa (8)
Nửa trong thể thống quốc gia dường nào
Dám xin tài quyết lượng cao
Quyền cương nỡ để tay trao kẻ ngoài
Vững phù mạnh nước lâu dài
Dẫu sao thì cũng là người nhà vương
Trót đà lạm dự tào khang
Trị bình cũng lấy tam cang làm đầu
Ngập ngừng kể lấy sự đầu
Bút hao mấy chữ lệ hoa đôi hàng
Cả lòng xin trước nhà vàng
Cây gương nhật nguyệt rỡ ràng  tiêu lâm
Nghìn năm khắc cốt minh tâm
Kẻ nông nổi chữ tình thâm thế cười
Nền vương sáng rỡ giữa trời
May nhờ hồng phúc muôn đời lâu xa.

TỰ TÌNH THI
Mon mảy muôn trông đức cửu trùng
Trời cao đất rộng kể khôn cùng
Trâm reo bệ ngọc còn e lệ
Hương bén phòng tiêu luống ngại ngùng (10)
Đếm tóc chưa đền ơn thánh đức
Dắt tơ nay cậy sức thiên công
Khôn trình ước vẹn niềm trung ái
Ngõ thỏa công sau đức thuận tòng.

Hai bài thơ này là của Vương phi dâng lên cho Minh Đô vương (11)
Nguyên bà phi được nhà Chúa yêu quí, sợ có ngày bị thất sủng nên sanh lòng đố kỵ với đám cung tần. Năm Lê Cảnh Hưng thứ 20 (1760) vì ghen với người sủng cơ là Thị Mỹ, bà phi cầm hộp trầu mà ném, chẳng may ném nhằm nhà chúa. Nhà chúa giận truyền đuổi ra khỏi cung, bắt giam vào bản dinh ngoài thành Thăng Long. Bà phi hối hận soạn hai bài thơ trên dâng lên nhà Chúa. Nhà Chúa cảm động cho xe loan ra rước trở vào cung.
_________________________________________________________
(1) Quảng hàn: Quảng là rộng, hàn là lạnh Tiếng dùng để chỉ cung trăng, mênh mông, lạnh lẽo. Trên cung Quảng hàn chỉ có chị Hằng Nga, con ngọc thố và chàng Ngô Cương tác chú cuội ở.
(2) Cửu trùng là chín tầng, chỉ trời và ngôi vua
(3) Cù mộc: Cây to cành lớn và cong xuống đẻ cho dây bìm dây sắn leo lên. Nghĩa bóng là vợ cả đối xữ với vợ bé có lòng thương. Chữ mượn trong sách Kinh Thi “Namhwux cù mộc, cát lũy luy chi (Phía Nam có cây to, cành cong xuống, dây sắn dây bìm leo quanh gốc) Cù mộc nói vợ lớn, cát lũy (sắn bìm) nói vợ nhỏ.
Hảo cầu Tốt đôi. Chữ trong Kinh Thi “Quan quan thư cưu tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu (Chim thư cưu kêu dịu dàng trên doi sông, người thục nữ hình dung yểu điệu cùng người quân tử rất xứng đôi)
(4) Sách vàng tức là sắc lệnh của vua chúa viết trên giấy vàng (sắc phong tước vương phi cho bà họ Nguyễn).
(5) Diễn là xa, dài, vắng.
(6) Quế non Yên: Con trai tài giỏi. Họ Đậu ở Yên sơn có 5 người con trai đều làm nên danh phận. Người đương thời tặng cho 4 chữ là “Yên sơn ngũ quế”. Bà phi không có con trai chỉ có một gái chết sớm là Tiên Hoa công chúa.
(7) Ngôi Càn là ngôi vua chúa. Càn là quẻ Càn, quẻ đứng đầu trong bát quái thường để chỉ Trời, vua chúa, cha.
(8) Dã hoa: hoa ngoài nội (cỏ nội hoa hèn). Phận tiện là phận hèn.
(9) Tiêu lâm: Rừng chim tiêu liêu ở. Chữ mượn trong câu “Tiêu liêu sào lâm. Bất quá nhất chi (Chim tiêu liêu đậu nơi rừng, chỉ choáng một cành mà thôi, chớ không choáng cả rừng)
(10) Phòng tiêu: ngày xưa các phòng của vợ vua chúa thường lấy hồ tiêu quét lên tường lúc đông sang để cho ấm. Nên gọi là tiêu phòng.

(11) Minh Đô vương là tước hiệu của Trịnh Doanh. Nhà Lê làm vua xưng đế, nhà Trịnh làm chúa xưng vương. Vương nhỏ thua đế song quyền bính trong nước đều nằm trong tay chúa Trịnh, vua Lê chỉ có hư vị.